TRUYỀN GIÁO
Phần 1
Các bài giảng
Phương án
Tuần báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật, 25/02/1990 có một bài phê phán cách làm kinh tế tại Việt Nam. Tác giả là một Việt kiều, ông Nguyễn Ðăng Hưng, giáo sư đại học Liège, Bỉ. Theo tác giả, thì thời này, làm kinh tế với cung cách “Vừa học vừa làm, vừa làm vừa sửa” là không thể chấp nhận được. Muốn làm ăn có hiệu quả tốt thì phải nghiên cứu, phải biết việc, phải suy nghĩ theo các nguyên tắc và trên những dữ kiện thị trường cụ thể, phải làm ra các phương án thích hợp, và biết chọn phương án nào chắn chắc thành công, có lời nhiều nhất. Nếu không, kinh tế không những không lên, mà còn đi xuống.
Nội dung bài báo đó, gợi ý tôi liên tưởng đến việc truyền giáo tại Việt Nam. Nhiều nơi làm rất tốt, có lời lãi. Nhưng nhiều nơi làm thua lỗ. Có nơi tinh thần truyền giáo như một thứ nghiệp dư. Vì thế, hiệu quả không nhiều, không sâu, không bền, có khi còn đi xuống.
Tôi nghĩ rằng, mỗi linh mục đều đã và đang làm việc truyền giáo theo một phương án nào đó, mặc dù không rõ rệt. Nếu được hệ thống hoá, các phương án ấy sẽ rõ hơn lên, sẽ phong phú thêm. Tôi xin góp phần vào việc hệ thống hoá ấy. Sau đây là 4 phương án đang thịnh hành.
Phương án một: Trồng Hội Thánh vào Ðất Nước, nói chung, và địa phương, nói riêng
Khi tôi trồng một cây vào thửa vườn nào, tất nhiên, tôi muốn nó thuộc về thửa vườn đó, muốn nó có một vị trí trong thửa vườn đó, góp phần làm lợi cho thửa vườn đó. Tương tự, cũng vậy, khi phát hiện ở một nơi có những hộ công giáo cần sinh hoạt tôn giáo chung với nhau theo luật đạo, tôi cố gắng dựng lên ở đó một nhà thờ, để họ dễ bề quy tụ, rồi tôi sai linh mục tới phục vụ họ. Dần dần đời sống đạo được nẩy nở ở môi trường đó, nhờ môi trường đó, trong môi trường đó, phục vụ cho môi trường đó. Làm những việc như vậy là trồng Hội Thánh vào một địa phương.
Trên đây chỉ là một trường hợp nhỏ. Còn nhiều trường hợp khác lớn hơn với những chiều kích đa dạng.
Trồng cây thì dễ, nhưng trồng Hội Thánh vào một lịch sử là việc không đơn giản chút nào. Bởi vì đây là một hành trình đi vào xã hội, đi vào lòng người.
Ðể có thể ăn rễ và phát triển ở một nước, một tỉnh, một miền, Hội Thánh, như một cây, phải được nơi đó nhìn nhận là một cây có lợi. Do đó, tất nhiên Hội Thánh phải làm mọi cách để tự chứng minh, tự giới thiệu mình. Ðâu cũng thế thôi. Chẳng ai muốn cho nhập khẩu vào nhà mình những ai mà mình nghi là sẽ gây hại, gây rắc rối cho nhà mình.
Trong lịch sử các tôn giáo đã có những trường hợp người ta trồng Hội Thánh vào một địa điểm bằng cách dùng võ lực, đấu tranh pháp lý, gây áp lực chính trị và kinh tế. Bằng những con đường như thế Hội Thánh có lúc đã giành được một chỗ đứng trong pháp luật, nhưng không dễ vào được lòng người, trái lại, nhiều khi đã gây nên hận thù nghi kỵ lâu năm lâu đời. Bởi vì, lúc ấy, Hội Thánh bị coi như một quyền lực, chứ không tự chứng minh được mình là dấu chỉ và dụng cụ của Thiên Chúa tình yêu.
Toà Thánh rất ý thức điều đó. Nên trong quá trình truyền giáo tại Việt Nam, ngay những năm đầu, Toà Thánh đã có những chỉ thị rất rõ. Huấn thị Bộ Truyền giáo gửi cho các Ðấng Bản Quyền tại Việt Nam năm 1659 là một thí dụ điển hình. Ðây là một tài liệu quý. Toàn văn huấn thị này được dịch ra Pháp Văn do Mgr Bernard Jacqueline trong bài "L' Esprit missionnaire de la S.C. de Propagande Fide d'après les instructions aux vicaires apostoliques des Royaumes du Tonkin et du Cochinchine (1659)” đăng trên “Documents Omnis Terra” LXXXI-5, tháng 05/1971, của Bộ Truyền Giáo, Nên nhớ các vị truyền giáo thời ấy đều là người nước ngoài.
Ở đây, tôi xin trích dịch một số điểm quan trọng mà hiện nay vẫn cần được quan tâm nghiên cứu.
a. Các đức tính nhà truyền giáo
“Ðiều đòi hỏi họ nhiều nhất là họ phải có một đức bác ái cao và sự khôn ngoan... Họ phải là người phong hoá đàng hoàng, lịch thiệp, hiền từ, kiên nhẫn, khiêm nhường, lo làm gương sáng, các nhân đức về niềm tin Công Giáo mà họ tuyên xưng. Họ phải là những người được huấn luyện theo luật đức ái, Phúc Âm, biết thích nghi với những phong tục và tính tình kẻ khác...” (Số 1/1).
b. Mục đích trước mắt
“Hãy luôn luôn để trước mắt mình mục đích này là đưa những người địa phương xứng đáng lên các chức thánh, càng nhiều càng tốt, huấn luyện họ và giúp từng người tiến lên đúng lúc” (Số 1/III).
c. Ðối với văn hoá địa phương
"...Không được thuyết phục dân địa phương thay đổi các nghi lễ của họ, cách ăn mặc của họ, các phong tục của họ, đừng kể thứ nào thực sự trái với đạo và luân lý một cách rõ ràng...Thực không có lý do nào làm cho người ta xa lánh và ghét đạo cho bằng bắt người thay đổi những thói tục riêng của dân tộc, nhất là những thói tục đã có từ thời tổ tiên...” (Số 12/III).
d. Ðối với an ninh trật tự xã hội
"...Trong khi giảng Lời Chúa và ban các bí tích, không được làm gì gây cớ cho người ta nghi là anh em muốn gây rối. Và quy tụ giáo dân để dạy dỗ và tham dự các lễ nghi phượng tự, hãy tránh những gì làm cớ cho người ta nghi anh em muốn kích động nổi loạn...” (Số 13/III).
e. Ðối với nhà cầm quyền
"...Hãy giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với Nhà Nước, dù các vị cầm quyền là những người khó khăn. Ở chỗ riêng tư cũng như ở nơi công cộng, đừng chỉ trích việc làm các nhà cầm quyền, ngay cả những vị đang bắt bớ anh em... Hãy kiên nhẫn và thinh lặng, chờ đợi ở Thiên Chúa thời giờ an ủi...” (Số 11/III).
f. Ðối với các chỉ thị của Bộ Truyền Giáo
"...Nếu trong việc trung thành với các chỉ thị của Bộ Truyền Giáo, anh em gặp phải hoặc thấy trước những khó khăn lớn, đến mức đoán được rằng, sự áp dụng các chỉ thị ấy sẽ không khỏi gây ra rối loạn, thì với bất cứ giá nào, anh em phải tránh áp đặt các chỉ thị đó... Tốt hơn, anh em đừng áp dụng chỉ thị ngay. Nhưng hãy tìm thời giờ viết cho Bộ Truyền Giáo, trình bày sự việc một cách đầy đủ chân thành, và hãy đợi Bộ trả lời phải làm gì” (Số 4/III).
Như trên vừa thấy, phương án này nhấn mạnh đến việc đào tạo nhân sự địa phương và xây dựng liên hệ tốt với địa phương. Do đó, người thực hiện phương án trồng Hội Thánh vào một địa điểm rất cần có những đức tính xã hội. Huấn thị Bộ Truyền Giáo chỉ rõ những đức tính này: Bác ái, khôn ngoan, lịch thiệp, hiền từ, khiêm tốn, thích nghi, kiên trì. Chúng ta có những đức tính đó không? Và chúng ta có để ý huấn luyện những đức tính đó cho những người cộng tác của ta không?
Phương án hai: Cứu rỗi các linh hồn
Khi trồng Hội Thánh vào một địa phương, người truyền giáo vốn nhằm mục đích phục vụ nhân dân địa phương đó bằng sự chia sẻ Tin Mừng dưới những hình thức thích hợp nhất. Tuy nhiên nhất là trước đây, không thiếu người vẫn chủ trương Tin Mừng chỉ là cứu rỗi linh hồn nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh. Nên truyền giáo chủ yếu là đưa mọi người vào Hội Thánh và giúp họ sống đạo tốt, để họ được rỗi linh hồn. Do đó, đối với linh mục sống tinh thần truyền giáo, thì cứu rỗi các linh hồn phải là mục tiêu, phải là động lực, phải là lẽ sống đời mình.
Ngay từ đầu thế kỷ này, Cha M. Cadro, tục gọi là cố Lương, đã tha thiết khuyên nhủ giáo sĩ Việt Nam nhớ kỹ điều ấy. Tư tưởng đạo đức của ngài được phổ biến trong một tác phẩm dài 666 trang, viết tại Vĩnh Trị năm 1902 và in tại Kẻ Sở năm 1907. Sách mang tựa đề: “GƯƠNG ĐẤNG LÀM THẦY” cố Lương (M. Cadro) đã dọn ra trong địa phận Tây Ðàng Ngoài.
Ở đây xin trích nguyên văn một số ý:
a) Về bổn phận cứu rỗi các linh hồn
"...Dù Ðấng làm thầy đi đàng nhân đức, giữ mình sạch tội, làm nhiều việc lành mặc lòng, nếu người chẳng cứu linh hồn người ta, thì người cũng sẽ phải phạt, phải mất linh hồn” (trang 247).
"...Có thầy cả chẳng muốn chịu khó cứu lấy linh hồn người ta vì sợ kẻo khó nhọc làm vậy, ấy thì sinh bệnh mà chóng chết. Vậy kẻ ấy phải biết rằng, thà chết non chết sớm mà làm được nhiều việc lành, lập ít công phúc và cứu được ít linh hồn. Thà chết khi bốn, năm mươi tuổi mà cứu được nhiều linh hồn, chẳng thà sống tám, chín mươi tuổi mà chẳng làm ích gì cho người ta, chẳng cứu được linh hồn nào” (trang 257).
b) Về các việc phải làm để cứu rỗi linh hồn các người có đạo
"1- Thầy cả phải biết hết các con chiên mình.
2- Người phải chịu khó dạy dỗ coi sóc con trẻ.
3- Người phải lo liệu cho người ta năng xưng tội chịu lễ.
4- Người phải năng giảng giải khuyên bảo người ta.
5- Người phải năng khuyên bảo kẻ khô khan tội lỗi cách riêng.
6- Người phải siêng năng làm phép giải tội cho người ta và đi làm các phép cho kẻ liệt lào mong sinh thì.
7- Người phải lo liệu cho người ta được kính mến trả nghĩa Ðức Giêsu ngự trong phép Mình Thánh.
8- Người phải lo liệu cho người ta được lòng kính mến và trông cậy Ðức Bà cách riêng.
9- Về những họ thánh người nên lập trong bản xứ.
10- Về sự cấm phòng chung cho hàng xứ hay là cấm phòng riêng cho họ nào” (trang 604).
c. Về các việc phải làm để cứu rỗi linh hồn kẻ ngoại
“Việc thứ nhất thầy cả phải làm cho được cứu lấy linh hồn kẻ ngoại đạo là phải lo liệu rửa tội cho trẻ con nhà ngoại đạo khi rình sinh thì.
Việc thứ hai là phải chịu khó khuyên bảo những kẻ lạc lối lo ăn năn trở lại chịu đạo.
Việc thứ ba là phải năng cầu nguyện cho nó” (trang 629)
Những tư tưởng trên đây của một vị thừa sai trước ta một thế kỷ cho thấy lòng nhiệt thành của hàng giáo sĩ thời đó tại Quê Hương Việt Nam này là rất lớn. Chúng ta có lòng nhiệt thành như vậy không?
Phương án ba: Hội nhập vào văn hoá dân tộc
Thời đại này gọi là thời đại văn hoá. Nên cái gì, việc gì cũng cần có văn hoá, phương chi việc truyền giáo. Hơn nữa, để đi được vào cuộc sống bao giờ cũng có gốc rễ văn hoá dân tộc, thì Tin Mừng không thể đứng ngoài văn hoá dân tộc được.
Văn hoá một dân tộc là tổng hợp những yếu tố tâm lý, lịch sử, xã hội của dân tộc đó, chính nhờ những yếu tố này con người thuộc dân tộc ấy có thể tôi luyện và phát triển những khả năng đa dạng tinh thần tổ chức của mình, để có thể tổ chức tốt cuộc sống cá nhân, gia đình, xã hội và nhân loại.
Văn hoá một dân tộc là tất cả những gì làm nên cái nhìn của dân tộc ấy về cuộc đời, với những hoài niệm về quá khứ và với những hoài bão về tương lai.
Văn hoá ví như nước, con người ví như cá. Nếu Tin Mừng hoà vào được văn hoá, con người sẽ dễ gặp được sự sống Ðức Kitô.
Nhận thức như trên đã được Công đồng Vatican II nêu lên chính thức. Sau đó, Ðức Phaolô VI, nhất là Ðức Gioan Phaolô II đã nhiều lần kêu gọi các người làm việc truyền giáo hãy có một sự bén nhạy sâu sắc về vấn đề này. Nhờ vậy, vấn đề này đang trở thành một đề tài thần học và mục vụ sôi nổi.
Chỉ trong 12 năm nay thôi, đã thấy xuất bản nhiều tác phẩm có liên quan đến phương án: “Hội nhập văn hoá”.
Thí dụ:
J. Criti, L'Expérience de la foi dans les cultures, Paris, Le Centurion, 1975.
P. Poupard, Eglises et cultures, jalons pour une pastorale de l'intelligence, Paris, Editions SOS, 1980.
C. Goffré, Théologie et choc des cultures, Paris, les Editions du Cerf, 1984.
H. Carrier, Cultures notre avenir, Rome, Presses de l'Université Grégorienne, 1985.
H. Carrier, Evangiles et Culures de Léon XIII à Jean-Paul II, Paris, Editions Mediaspaul, 1987.
Achiel Peelman, L'inculturation, Paris, Desclée, 1989.
Nội dung các sách trên đây đều có tính cách khích lệ những tìm tòi mới của các Giáo Hội thuộc thế giới thứ ba. Những Giáo Hội này có những nền văn hoá riêng, khác với Âu Mỹ. Nhờ biết đi vào các tuyến đường của nền văn hoá riêng của dân tộc mình, các Giáo Hội này đã phát triển, và đang đi tới một tương lai đầy hứa hẹn.
Tháng 10/1989, có một cuộc hội thảo quốc tế, tổ chức tại Klingenthal, gần Strasbourg Pháp, để bàn về “vai trò của nền văn hoá trong việc xây dựng căn nhà chung Châu Âu”. Trong thành phần tham dự có Ðức Hồng Y.P. Poupard và ông Evgenij Silin, phó chủ tịch Uỷ Ban Liên Xô về an ninh và hợp tác Âu Châu. Các bài phát biểu quan trọng đã được đăng trên tạp chí Athéisme et Dialogue, XXIV-4,1989, Citta del Vaticano.
Qua những tài liệu này, tôi thấy nền văn hoá Âu Châu, dù bên Tây Âu, dù bên Ðông Âu, đều có 4 yếu tố giống nhau sau đây:
1. Di sản tư tưởng Hy Lạp với óc lý luận.
2. Di sản kiến thức La Mã với tinh thần tổ chức.
3. Di sản các giáo phụ với nhân sinh quan Phúc Âm.
4. Di sản các cuộc cách mạng chính trị xã hội như cách mạng Pháp, Ý, các cuộc cách mạng tôn giáo như cuộc bùng nổ Tin Lành, và những trào lưu thế kỷ ánh sáng với tinh thần khoa học thực dụng, đề cao con người tự do, bình đẳng liên đới.
Giáo Hội tại Âu Châu giữa một nền văn hóa có yếu tố Thiên Chúa giáo rất sâu, rất rộng như vậy, thế mà hiện nay, họ cũng đang đặt ra cho họ vấn đề “Hội nhập văn hoá”. Bởi lẽ văn hoá Châu Âu hôm nay đã biến chuyển nhiều rồi.
Trên đường xây dựng căn nhà chung Âu Châu, hiện nay cả hai khối Tây và Ðông đang được Ðức Giáo Hoàng kêu gọi tìm lại chính mình, tức là trở về với nền văn hoá truyền thống Kitô Giáo, và tìm cách phát huy nó.
Còn Á Châu, nói chung, và Việt Nam nói riêng, vốn có một nền văn hoá không phải là truyền thống Kitô giáo, nếu hôm nay được kêu gọi tìm lại chính mình, tức là trở về với nền văn hoá truyền thống riêng của mình, thì Thiên Chúa giáo tại đây sẽ ra sao? Vì thế, vấn đề hội nhập văn hoá cách nào đối với chúng ta là rất quan trọng.
Sự hội nhập này không phải chỉ là diễn tả đức tin qua các mầu sắc riêng của nền văn hoá Việt Nam, mà đặc biệt là biết góp phần làm đẹp thêm nữa những giá trị truyền thống của dân tộc bằng chính tinh thần Phúc Âm.
Không thiếu những giá trị truyền thống dân tộc mà người Việt Nam nào cũng trân trọng, thí dụ: Tình thương gia đình, tình yêu Tổ Quốc, tình nghĩa đồng bào. Cần kiệm, liêm chính, nhân nghĩa lễ trí tín là một vườn hoa thơm đẹp đã được chọn lựa trong văn hoá Việt Nam, với những vẻ đẹp mà dân tộc sẵn có và luôn khát vọng vươn lên. Tin Mừng khi biết hội nhập, là một động lực mới, góp phần thăng tiến con người và cuộc sống.
Ngoài ra, văn hoá Việt Nam hôm nay đang nhấn mạnh đến những điểm sau đây:
-Một là thao thức về cuộc sống đồng bào, với những quyền lợi và nghĩa vụ hợp lý hợp tình.
-Hai là đề cao tính xã hội như tinh thần trách nhiệm, sự hợp tác, đoàn kết, các đức tính nhân bản.
-Ba là phát huy tính dân tộc, như lòng yêu nước, bảo vệ giang sơn, chống ngoại xâm, phát huy những cái đẹp độc đáo Việt Nam.
-Bốn là hướng về nền văn minh khoa học kỹ thuật, với những quy mô nhỏ, mô hình nhỏ.
Những điểm trên đây, nếu được chúng ta khéo vận dụng trong các bài giảng, các lớp giáo lý, các bài hát, các lời kinh, các cuộc tổ chức lễ, các công trình xây cất tôn giáo, và các sinh hoạt xã hội, thì đúng là chúng ta đem Phúc Âm hội nhập vào văn hoá dân tộc, kết quả sẽ là giúp phát triển con người và xã hội Việt Nam.
Và đây, chúng ta bước sang một phương án khác.
Phương án bốn: Phát triển con người và cuộc sống
Làm việc phát triển là tiếp tục công việc tạo dựng của Thiên Chúa. Tất nhiên bao giờ cũng phải hiểu phát triển là biến đổi theo hướng đi lên.
Ngôn từ “Phát triển” không thấy có trong Phúc Âm, nhưng nghĩa của nó lại tràn lan trong Phúc Âm. Các việc Chuá cứu thế đã làm, từ việc hoá bánh ra nhiều để nuôi dân... cho đến việc tha tội, đều có tính cách phát triển con người và cuộc sống, hầu chuẩn bị con người để đón nhận Nước Trời. Hơn nữa, có thể nói làm việc phát triển là một đặc điểm của Chúa cứu thế. Bởi vì khi thánh Gioan Baotixita gởi môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu xem Người có phải là Ðấng phải đến không, thì Chúa Giêsu đã trả lời thế này: “Hãy về thuật lại cho Gioan mọi điều các bạn đã nghe và đã thấy: Kẻ mù được sáng, kẻ què đi được, người phong được sạch, người điếc được nghe, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng". Tất cả các việc vừa kể có thể giới hạn trong từ “phát triển”.
Hiện nay phát triển đang trở thành một đòi hỏi gay gắt. Tình hình xã hội đòi hỏi, Phúc Âm, đòi hỏi. Thông điệp “Sollicitudo rei Socialis” của Ðức Gioan Phaolô II năm 1987 cho thấy phát triển là một thách thức đặt ra cho bất cứ người thiện chí nào, đặc biệt là cho những người của Hội Thánh.
Không nên hiểu phát triển một cách què quặt, hoặc chỉ là bề mặt tinh thần, hoặc chỉ là bề mặt thể chất, hoặc đơn thuần chỉ là kinh tế với “cơm no áo ấm”, hoặc đơn thuần chỉ là chính trị với “tự do dân chủ”.
Theo thiển ý của tôi, phát triển phải được hiểu về mọi mặt, nó là một sự biến đổi toàn thể con người và cuộc sống cho nên tốt hơn. Nhưng như thế sẽ có cả một khối vấn đề được mọc lên, mà khả năng giải quyết của ta thì rất giới hạn. Vì thế, căn cứ theo tinh thần thông điệp Sollicitudo rei socialis và bậc thang nhu cầu tại Việt Nam ta lúc này, tôi thấy có mấy điểm sau đây cần được quan tâm hơn trong phương án phát triển:
1. Ưu tiên lo đào tạo những con người, để họ có thể tự phát triển chính mình và có khả năng phát triển người khác
Những con người như thế không phải chỉ cần nhiệt tình lương tâm, mà còn cần có trình độ kiến thức, chuyên môn, biết phán đoán và biết tổ chức. Hoàn cảnh có lúc dễ dàng, có lúc khó khăn, những yếu tố quyết định trong thành công phát triển vẫn là yếu tố con người. Nếu mỗi năm, mỗi linh mục, mỗi tu sĩ, mỗi chủng sinh, mỗi tông đồ giáo dân đào tạo ít là được một người, như trong các ngành nghề, y tế, giáo dục, kỹ thuật, tôn giáo... thì dần dần số đó sẽ nhân lên. Cứ thế, mười năm, hai chục năm, tình hình sẽ phát triển vững chắc. Khi các ngọn đèn cứ mãi tăng lên, bóng tối sẽ bị đẩy lùi.
2. Ưu tiên lo cho người nghèo, đem lại cho họ ánh sánh hy vọng và ủi an
Nếu người nghèo phải chịu đủ thứ thiệi thòi, có khi cả trong phạm vi tôn giáo. Nếu chúng ta không để ý đến số phận họ, thì chính chúng ta sẽ phải thiệt thòi lớn hơn họ. Và cái thiệt thòi lớn nhất dành cho ta sẽ do chính Chúa. Ðiều đó chúng ta thừa biết, khi đọc bài Phúc Âm về ngày phán xét: “Ta đói, các ngươi không cho Ta ăn. Ta đau ốm, các ngươi đã không thăm viếng”.
3. Ðặc biệt để ý xây dựng tinh thần liên đới bằng chính các việc làm cụ thể
Ðừng chỉ biết có quyền lợi cá nhân mình. Ðừng chỉ lo cho quyền lợi riêng của giáo xứ mình. Ðừng chỉ biết vun đắp cho quyền lợi riêng của Hội Thánh mình. Trong dụ ngôn người phú hộ và người hành khất Lagiarô, ông phú hộ chỉ vì không thực hiện tình liên đới với kẻ nghèo, nên đã bị kết án. Và cái án đó là hoả ngục. Thực là đáng sợ! Nếu trong một giáo xứ, trong một giáo phận, trong một giáo hội địa phương và trong Giáo Hội toàn cầu, tinh thần liên đới được thực hiện rộng rãi, có những chia sẻ thực sự, có những thông cảm thực sự, thì bộ mặt Hội Thánh sẽ toả sáng chan hoà. Và đó là một cách truyền giáo đầy sức thyuết phục.
Tôi nghĩ rằng: Cả 4 phương án trên đây đều đang được chúng ta quan tâm và thực hiện với những mức độ khác nhau. Khi đưa ra 4 phương án này, tôi biết là sẽ còn thiếu sót. Nhưng tôi sẽ càng thiếu sót hơn, đến độ ngu si, nếu tôi nghĩ rằng: Cứ kể ra thật nhiều phương án, thế là tức khắc, các trái tim truyền giáo sẽ bùng cháy lên như ngọn đuốc can trường. Bởi vì chúng ta đã từng biết: Kẻ đem lửa truyền giáo đến lòng ta không phải là ta, mà sẽ là kẻ bước đi không tiếng động, là kẻ nói không âm thanh, là kẻ chủ động trong thinh lặng hoàn toàn, đó là Chúa Thánh Thần.
Chúng ta hãy đến với Người, hãy suy nghĩ bên Người, hãy cầu nguyện với Người. Chính Người sẽ soi sáng và hướng dẫn ta, để ta biết thực hiện các phương án thế nào cho hợp thánh ý Chúa, hầu đáp ứng được lời Chúa truyền dạy: “Chúng con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân”.
Tuần tĩnh tâm Linh Mục giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, năm 1990