MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Những tuyến đường
Ngày 24/11/1990, tôi được tham dự thánh lễ đồng tế do Ðức Giáo Hoàng chủ sự. Tôi thấy trên bàn thờ nhiều đồ thánh: Sách thánh, chén thánh, đĩa thánh, khăn thánh, bánh thánh. Các vị chung quanh bàn thờ đều có chức thánh.
Tuy nhiên, có những đồ không thánh và những người không có chức thánh, nhưng lại rất cần cho việc công bố Lời Chúa. Ðó là chiếc mirco, chiếc máy quay Vidéo, và những chuyên viên thu hình thu thanh. Những chiếc máy đó là rất đời. Những chuyên viên đó cũng hoàn toàn đời. Nhưng nhờ có những máy ấy và những chuyên viên ấy, Lời Chúa mới được tới tai các người dự lễ, và hình ảnh cũng như âm thanh cuộc lễ mới tới được nhiều người, nhiều nơi trên thế giới.
Từ nhận xét trên đây, tôi nghĩ tới những chuyện đời, những giá trị không gọi là thánh, nhưng lại rất hữu ích cho việc truyền bá chân lý Phúc Âm. Nhiều nơi Giáo Hội bị hạn chế, nhưng vì biết tận dụng những thứ đó, nên vẫn tích cực sống đạo và truyền đạo được. Tôi nói như vậy, bởi vì tôi thấy điều đó đã xảy ra ở Giáo Hội Tiệp Khắc cách đây ít năm. Và đây là trường học thứ ba của tôi trong chuyến đi Ad Limina.
Theo báo chí kể lại, thì chế độ trước đây của Tiệp Khắc, đã rất khắt khe với công giáo. Họ muốn đẩy công giáo vào một tình hình chỉ cò những việc tế tự mà thôi. Họ không muốn đức tin là một sự sống thiêng liêng cần được thể hiện, bồi dưỡng và phát triển. Ý họ là như thế. Và họ cũng dùng nhiều cách để thực hiện ý định đó.
Thế nhưng, mặc dầu gặp khó, các người công giáo Tiệp vẫn đưa được đức tin đi ra xã hội bằng những tuyến đường công khai hợp pháp.
Tuyến đường thứ nhất là gặp gỡ đối thoại
Xu hướng này được nhà thần học Josef Zverina cổ võ. Người công giáo gặp gỡ những người ngoài công giáo. Trong tình người và trong tình đồng bào. Có những dây liên hệ tốt. Có những giúp đỡ qua lại thân tình. Chẳng cần và cũng không nên bàn cãi về ý thức hệ và đức tin. Cuộc sống đâu có thiếu vấn đề. Trao đổi là lắng nghe và góp ý. Một cách cởi mở chân thành, trong tinh thần tôn trọng chân lý và phát huy tình thương. Trong mọi gặp gỡ, người có sự sống Ðức Kitô sẽ không thiếu cách để nâng tâm hồn người mình gặp lên những lý tưởng đẹp, và trong mọi trường hợp, người sống đức ái Phúc Âm sẽ luôn luôn tỏ ra mình là khí cụ bình an của Chúa. Khi được huấn luyện và khích lệ, kẻ tha thiết với phần rỗi đồng bào, sẽ coi sự gặp gỡ, trao đổi, đối thoại như một tuyến đường rất thích hợp để chuyên chở Tin Mừng vào các linh hồn và vào bầu khí xã hội.
Tuyến đường thứ hai là hoạt động văn hoá, xã hội, từ thiện
Xu hướng này được triết gia Neubauer khích lệ. Thời nay, hoạt động văn hoá, xã hội, từ thiện là những ngôn ngữ dễ hiểu nhất đối với hết mọi loại người. Chỉ trong khoảnh khắc, cả mấy triệu người trước máy tivi có thể xúc động do ảnh hưởng một bài hát, một bản kịch, một cuốn phim, một khuôn mặt người nghệ sĩ được quần chúng mộ mến. Một bài báo hay, một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, thường có sức mạnh sâu rộng trên tâm lý quần chúng hơn các bài giảng tôn giáo. Người ta cũng nhận thấy điều này là các việc xã hội, và từ thiện đã trở thành dấu chỉ của một tôn giáo tốt. Vì thế, đối với những người công giáo Tiệp có tinh thần truyền giáo và thăng tiến đồng bào, việc đào tạo những con người và đầu tư những con người có trình độ văn hoá, có các đức tính xã hội và có tâm hồn bác ái là quan tâm hàng đầu. Cũng do động lực đức tin, họ muốn có mặt ở các sinh hoạt văn hoá, xã hội và từ thiện. Dấn thân trên các địa bàn này là việc khó hơn sinh hoạt tôn giáo trong nhà thờ. Nhưng chính nhờ những sinh hoạt ngoài nhà thờ mà lý tưởng công bình bác ái Phúc Âm mới phục vụ đông đảo đồng bào và làm chứng được cho đạo một cách thuyết phục.
Tuyến đường thứ ba là chính trị
Trong Quốc Hội Tiệp hồi đó, có nhóm chính trị gọi là Ðảng Nhân Dân do ông Josef Sartoncik đứng đầu, và một nhóm chính trị khác gọi là Dân Chủ Thiên Chúa Giáo do ông Vaclak Benda lãnh đạo. Thành viên hai nhóm này là người công giáo. Họ làm việc với Ðảng Cộng Sản, nhưng họ không quên họ là những người công giáo. Nên, mặc dầu trong hoàn cảnh hạn hẹp, họ vẫn đóng góp được phần nào trong việc giải quyết các vấn đề của nhân dân một cách công bình bác ái theo tinh thần Phúc Âm. Cũng do động lực Phúc Âm, nhiều người công giáo Tiệp đã có mặt trong mọi hoạt động chính trị, từ lập pháp, đến hành pháp và tư pháp, từ trung ương đến địa phương. Ðối với người có lý tưởng tông đồ, thì có mặt trong chính trị vẫn có lợi hơn là vắng mặt, và đi ra xã hội vẫn có lợi hơn là rút vào nhà thờ.
Tuyến đường thứ bốn là thích nghi
Xu hướng này muốn làm chứng rằng: Trong mọi hoàn cảnh, người ta vẫn có thể sống đạo tốt và truyền đạo được một cách hữu hiệu, nếu người ta biết thích nghi. Ðứng đầu xu hướng này là Ðức Cha Jan Korec. Ngài được thụ phong linh mục chui năm 1950, hồi 26 tuổi. Năm sau, ngày 24/8/1951, ngài được tấn phong Giám Mục, cũng chui, lúc mới 27 tuổi. Ngài tiếp tục làm công nhân tại một nhà máy hoá chất ở Bratislava. Năm 1960 Ngài bị lộ và bị bắt. Năm 1968, Ngài được tha, dịp “Mùa Xuân Praha” Ngài được phép đi Vatican viếng Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI. Về nước khi tình hình khó lại, Ngài không được Nhà Nước công nhận là Giám Mục và linh mục, Ngài vào làm việc tại một xí nghiệp sửa chữa các thang máy. Lãnh đạo xí nghiệp là một chủng sinh chui. Năm 1984, Ngài bị chính quyền địa phương cho về hưu non. Ngài về sống trong nhà một kỹ sư sau này đi tu dòng Tên. Từ 6/2/1990 đến nay Ngài là Giám Mục chính thức địa phận Nitra. Ðược hỏi về tinh thần của Ngài trong những năm làm giám mục thợ trong nhà máy, trong xí nghiệp, và 8 năm trong nhà tù, cũng như mấy năm sau cùng, sống ở nhà giáo dân, Ðức Cha Korec trả lời đại khái là tinh thần Ngài rất vui nhờ đức tin. Nếu không có đức tin, thì không nhìn thấy một tia hy vọng nào cả. Nhờ đức tin, Ngài biết thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đâu, và với điều kiện nào, Ngài vẫn tích cực truyền bá đức tin được, và kết quả thực là lớn lao.
Tuyến đường thứ năm là đồng hành với dân tộc
Trên tuyến đường này, người ta nhận thấy một khuôn mặt nổi bật, đó là Ðức Hồng Y Frantisek Tomasek, Tổng Giám Mục Praha. Với tư cách là người đứng đầu Giáo Hội địa phương, Ðức Hồng Y luôn tỏ ra mình là người canh thức, luôn có mặt trong các vấn đề của dân tộc mình. Ðồng hành với dân tộc, Ngài chia sẻ những mừng vui và lo âu của dân, Ngài tham gia một cách có trách nhiệm vào những thăng trầm của lịch sử đất nước, Ngài góp phần vào việc giải quyết các nguyện vọng của dân, nhất là của những người nghèo, những người là nạn nhân của những bất công, kỳ thị. Với chủ trương đồng hành với dân tộc, Ðức Hồng Y Tomasek, mặc dầu già yếu, vẫn giới thiệu được một bộ mặt trẻ trung của Giáo Hội Tiệp nhìn về phía trước, với niềm tin vững chắc nơi Thiên Chúa giàu lòng thương xót, và với tình yêu nước nồng nàn, nhận trách nhiệm góp phần đổi mới quê hương.
Qua năm tuyến đường trên đây, người công giáo Tiệp thao thức với Nước Trời đã chuyên chở được Tin Mừng vào mọi lãnh vực của cuộc sống đồng bào mình. Nhìn tổng quát năm tuyến đường đó, tôi thấy một nét chung này là Giáo Hội Tiệp đã biết tận dụng những cái có trong tầm tay, để mở lối đi ra xã hội, đồng thời để thanh luyện đời sống đức tin cho nên trong sáng và dễ thương do tinh thần bác ái chan hoà của Ðức Kitô.
Năm tuyến đường trên đây đều ở giữa xã hội. Toàn là những tuyến đường đời. Ðường đời là đường đi của người truyền giáo. Bởi vì trên đường đó, có những địa chỉ, mà Chúa Giêsu sai họ đến. Những địa chỉ đó là những người chưa biết Chúa, những người đã bỏ Chúa, những người lao đao trong cuộc sống, những người bị đời bỏ rơi, những người đánh mất hy vọng và niềm tin.
Ðiều tôi coi là một chọn lựa sáng suốt nhất của Giáo Hội Tiệp trước đây, chính là việc biết đặt vấn đề đào tạo con người lên hàng ưu tiên. Muốn phát triển một Giáo Hội cũng như muốn đưa một đất nước lên, người ta không nên dồn sức, dồn của vào việc xây cất các cơ sở vật chất, nhưng cần chú ý hơn đến việc xây dựng con người. Có được những con người tốt với trình độ văn hoá cao, nhân bản vững, đi vào chuyên môn, tính phục vụ cởi mở, nhất là lương tâm đạo đức, và tinh thần dân tộc trưởng thành, Giáo Hội địa phương mới có khả năng trở thành điểm tựa cho đồng bào mình.
Tại các nơi, mà việc truyền giáo bị hạn chế như tại Tiệp Khắc trước đây, thì sự đầu tư cho việc đào tạo con người là rất cần thiết. Các thánh tông đồ xưa đã làm như vậy. Chính Chúa Giêsu xưa cũng đã nêu gương sáng đó.
Ở đây, tôi đặc biệt nhớ tới một hướng mà Chúa Giêsu đã vạch ra, khi đào tạo các môn đệ truyền giáo của mình, đó là hướng mở ra một cách tế nhị về phía những người bị dư luận đạo Do Thái kỳ thị. Nhiều Lời Chúa nói và nhiều việc Chúa làm đã chỉ rõ hướng mở ra đó chính là một chọn lựa quyết liệt của Ðức Kitô, mặc dầu phải trả bằng nhiều khổ đau sẽ phải gánh chịu.
Ðể có một mô hình trong Phúc Âm về hướng mở ra, tôi hay nghĩ tới trường hợp Chúa Giêsu đối thoại với người phụ nữ Samaria (x. Ga 4). Thời đó, dân Do Thái nhìn người Samaria với con mắt khinh khi. Họ kỳ thị người Samaria còn hơn là kỳ thị người vô đạo. Vì thế, họ tránh đi qua vùng Samaria, cũng như tránh mọi tiếp xúc với người Samaria. Hôm đó, Chúa Giêsu đi từ Giuđêa sang Galilêa. Theo thói quen thì người Do Thái đi vòng qua ngã Pêrêa để khỏi qua Samaria. Nhưng Chúa Giêsu dẫn các môn đệ Ngài đi thẳng qua Samaria, bất chấp dư luận. Hơn thế nữa, khi Ngài đang ngồi bên bờ giếng Giacóp ở Sichem, một phụ nữ Samaria bước tới thì chính Ngài chủ động bắt chuyện trước: “Thưa cô, xin cô làm ơn cho tôi chút nước uống”. Cố ý nói chuyện như vậy lại là một bước nữa trái với dư luận tôn giáo Do Thái. Rồi đang khi nói chuyện, có lúc Ngài đã mạc khải: “Chớ chi cô biết được ơn Chúa ban cho cô”. Nói lời đó chẳng khác gì nói lời khen cô ta. Rồi khi đề cập đến đời tư của cô với năm đời chồng, Ngài cũng chẳng một lời kết án nào. Rồi khi người phụ nữ ấy nói về sự khác biệt tôn giáo giữa hai dân tộc, bên Do Thái thờ Chúa ở Giêrusalem, bên Samaria thờ Chúa ở Garisim, thì Ðức Kitô không bảo bên Samaria làm sai, hoặc bên Do Thái làm đúng. Nhưng Ngài đưa ra một kết luận tế nhị: “Ðã đến thời, mà những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý”. Với lời đó, Ðức Kitô đã mở ra về hướng thờ phượng Chúa một cách sâu sắc, phổ quát, không bị ràng buộc vào một nơi, một lễ nghi, một thời gian, nhưng chỉ ràng buộc vào một người. Người phụ nữ nói: “Tôi biết là Ðấng Messia mà người ta gọi là Ðức Kitô sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ báo cho chúng ta mọi sự”. Và Chúa Giêsu trả lời: “Chính tôi đây, Người đang nói với cô đây”.
Câu chuyện truyền giáo của Chúa Giêsu cho người phụ nữ Samaria dạy tôi phải biết mở ra, và trên bất cứ tuyến đường nào tôi đi để truyền giáo, tôi phải luôn kết hợp mật thiết với một Ðấng vô hình, đó là Ðức Kitô. Chính Ðức Kitô là Ðường, là Sự Thực và là Sự Sống. Tình yêu cứu độ của Ðức Kitô sẽ giúp tôi nhạy bén và tế nhị trước hoàn cảnh phức tạp của từng xã hội, từng tập thể và từng người còn xa Chúa.
Tuần tĩnh tâm Linh mục giáo phận Long Xuyên, năm 1991