MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Tình hình đạo đức
Tại Việt Nam, từ mấy năm nay có ba hiện tượng lớn đang lan rộng. Một là hiện tượng kinh tế phát triển, hai là hiện tượng tôn giáo phát triển, ba là hiện tượng đạo đức phát triển.
Trước ba hiện tượng phát triển này, mọi người có đạo nói chung, và các linh mục tu sĩ nói riêng đều tỏ vẻ vui mừng. Tất nhiên, sự vui mừng đó là chính đáng.
Tuy nhiên, để sự vui mừng đó đừng trở thành ngây thơ đến mức nguy hại, tôi xin chia sẻ với anh em linh mục và tu sĩ vài nhận xét sau đây:
Nhận xét thứ nhất là tại nhiều nơi, kinh tế đang trên đà phát triển, nhưng đạo đức lại đang trên đà xuống dốc
Nói một cách bình dân, thì kinh tế phát triển là có thêm nhiều tiền bạc, của cải và nhiều phương tiện để cuộc sống được đầy đủ hơn, được thoải mái hơn, không bị thua kém trong một xã hội cạnh tranh đi lên các bậc thang sung túc.
Cũng nói một cách bình dân dễ được mọi người chấp nhận: Thì đạo đức là vẻ đẹp tâm hồn do các đức tính tốt, nhất là sự biết sống với gia đình, bè bạn, đồng bào, nhân loại một cách lương thiện, tình nghĩa, công bình bác ái.
Nếu để ý một chút, thì thấy ngay quan niệm về sự phát triển kinh tế không bị ràng buộc vào sự phát triển đạo đức.
Hơn nữa, vì muốn phát triển kinh tế với bất cứ giá nào, nhiều người đã chối bỏ đạo đức, hoặc tạm gác đạo đức sang một bên.
Từ mấy tháng nay, báo chí Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng báo động. Biết bao nhiêu cơ quan và cá nhân đã phát triển kinh tế bằng cách phát triển tội lỗi như dối trá, lừa đảo, chèn ép, bỏ vạ cáo gian, bán rẻ lương tâm. Biết bao gia đình khi nghèo túng, thì yêu thương đùm bọc nhau, nhưng khi có của thì ganh ghét nhau, xa nhau, tìm cách hại nhau. Biết bao nhiêu tội ác chỉ xảy ra ở những thành thị kinh tế phát triển, chứ không hề xảy ra ở các miền quê nghèo túng.
Nói thế, không có nghĩa là tôi không khuyến khích phát triển kinh tế. Trái lại, tôi coi việc phát triển kinh tế là một phương tiện hữu ích trong việc xây dựng Ðất Nước và trong mục vụ truyền giáo. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây, là những người có trách nhiệm đào tạo con người không nên quá đơn giản trong vấn đề đánh giá con người và phát triển kinh tế. Ðừng tưởng hễ nghèo là dễ đi vào con đường tội lỗi. Cũng đừng tưởng hễ kinh tế lên là đạo đức cũng dễ đi lên.
Tôi chưa thấy ai dám quả quyết rằng: Một tu viện giàu có là một tu viện dễ sống đạo đức hơn một tu viện nghèo. Nhưng tôi thấy rất rõ thái độ cảnh giác của Chúa Giêsu đối với những ai phát triển sự giầu có mà không phát triển đạo đức, nhất là đối với người nghèo. Dụ ngôn người phú hộ và người ăn mày Lazarô nói lên thái độ ấy. Thái độ cảnh giác như thế của Chúa Giêsu có lúc đã tăng cường độ, đến nỗi Ngài không ngại đưa ra một hình ảnh khủng khiếp: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào thiên đàng”. Khi nhớ tới lời trên đây của Chúa, tôi thực sự lo ngại cho những ai quá đề cao việc phát triển kinh tế, mà coi nhẹ việc phát triển đạo đức.
Nhận xét thứ hai là tại nhiều nơi tôn giáo đang trên đà phát triển, nhưng đạo đức lại đang trên đà xuống dốc
Tất nhiên ở đây, tôi muốn nói về tôn giáo theo một nghĩa đã được phổ biến từ lâu, ngay tại các nước có nhiều tôn giáo khác nhau. Theo nghĩa này, thì tôn giáo là một tổ chức được hình thành do sự liên kết những cá nhân có ba đặc điểm sau đây:
1. Tin tưởng vào một giá trị, mà họ cho là tuyệt đối, thí dụ hạnh phúc đời sau.
2. Liên hệ với một quyền lực thiêng liêng mà họ coi là ở trên họ.
3. Thực hiện một số lễ nghi theo công thức được chuẩn nhận.
Theo cách hiểu này, thì nội dung một tôn giáo gồm những tin tưởng, những lễ nghi, và sự tùng phục thần quyền. Ba yếu tố trên đây, tất nhiên mang tính chất đạo đức đối với thần linh, thần quyền của tôn giáo đó, nhưng chưa chắc đã mang tính chất được người ngoài đạo coi là đạo đức đối với gia đình, bè bạn, đồng bào, nhân loại. Tôn giáo nào muốn được nhân dân một nước, một địa phương nhìn nhận là có nội dung đạo đức đối với họ, thì tất nhiên tôn giáo ấy phải tự minh chứng bằng thực tế cuộc sống cũng như bằng giáo lý.
Tra mấy tự điển xem, họ định nghĩa tôn giáo thế nào, rồi đọc mấy cuốn tiểu thuyết về tôn giáo, tôi có cảm tưởng là tôn giáo trong các tác phẩm ấy vẫn được hiểu là một thực tại có ba yếu tố kể trên, tức là những điều tin tưởng, những lễ nghi và những thần quyền. Chứ theo họ, thì tôn giáo không mang yếu tố đạo đức khách quan, càng không đồng nghĩa với đạo đức, nhất là vì đạo đức thời nay được nhấn mạnh đến các mối tương quan công bình bác ái trong các liên đới.
Chẳng may, trên thực tế, rất nhiều nơi, nhiều người có đạo cũng chỉ lo phát triển ba yếu tố kể trên, nghĩa là phát triển niềm tin, phát triển lễ lạy, phát triển thần quyền. Họ coi thế là đủ để tự mãn, cho là tôn giáo mình đã phát triển. Ðang khi đó, các nhân đức quen thuộc nhất, như công bình, bác ái, hiền lành, khiêm nhường, lại thấy vắng mặt trong đời sống đạo mà không gây áy náy gì.
Tách rời tôn giáo ra khỏi đạo đức là một sai trái trầm trọng, làm cho tôn giáo biến chất, sinh cớ cho bao người chỉ trích và ác cảm đối với tôn giáo.
Hiện tượng tách rời đạo đức ra khỏi tôn giáo được ghi nhận khá thịnh hành tại Israel thời Chúa Giêsu. Hiện tượng đó lại được những người có thế giá trong đạo thời ấy bảo vệ. Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 23 cho thấy các chi tiết của một cuộc sống tự đắc cho là ngoan đạo, nhưng lại thiếu đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra 7 chi tiết. Ở đây, tôi chỉ trích lại một phần: “Khốn cho các người, hỡi các thầy thông giáo và các Pharisêu giả hình, các ông phô trương đọc kinh lâu giờ, nhưng lại xâu xé nhà bà goá... Khốn cho các ngươi, hỡi các thầy thông giáo và Pharisêu giả hình, các ông đi khắp nơi để tìm kẻ tân tòng, nhưng khi tìm được rồi, các ông lại làm cho kẻ đó trở nên con cái hoả ngục, xấu gấp hai các ông... Khốn cho các ông, hỡi các thầy thông giáo và các Pharisêu giả hình, các ông nộp thuế thập phân về mớ rau thơm, nhưng lại bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là sự công bình, lòng thương xót và đức trung tín”.
Ðọc đoạn Phúc Âm trên đây, tôi thực sự lo ngại cho nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay.
Nhận xét thứ ba là tại nhiều nơi, đạo đức đang phát triển tuy âm thầm nhưng sâu sắc, nhờ những người tốt, cố gắng sống và hoạt động theo tinh thần của Ðức Kitô
Những người đó được nhận ra ở ba đặc điểm này:
1. Họ tích cực tham gia vào các việc cứu giúp kẻ khác khỏi mọi thứ sự dữ, từ thể xác tới tâm tư, linh hồn.
2. Họ tích cực tham gia vào các việc xây dựng những tương quan hoà giải và tình thương...
3. Họ vui lòng chấp nhận từ bỏ mình để phục vụ kẻ khác, như một lễ tế cho tình yêu cao cả.
Những người tốt đó thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Có thể họ là người công giáo. Có thể họ là người ngoài công giáo. Ðiều đáng nói là họ sống theo tinh thần Ðức Kitô, dù có khi họ chưa biết Ngài, và với tinh thần Ðức Kitô, họ coi thái độ và hoạt động đạo đức đối với người khác là những bổn phận thiêng liêng.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho thấy mẫu người như thế nơi người Samaritanô nhân hậu đã cứu giúp một nạn nhân gặp ở vệ đường. Ông Samaritanô này là người ngoại đạo (x. Luca 10). Khi đề cao gương đạo đức nơi người Samaritanô ngoại đạo đó, Chúa Giêsu đã muốn lôi kéo các kẻ tin theo Chúa, hãy biết khiêm tốn nhìn nhận và kính trọng những người tốt, việc tốt, ngoài đạo của mình. Ðồng thời cũng hãy biết nhạy bén trước mọi hoàn cảnh xảy ra, để làm việc đạo đức đối với những người mình gặp. Ðạo đức không thể minh chứng bằng những điều cao siêu, nhưng bằng những thái độ tươi mát của tình người. Ở đây, tôi nhớ lại một câu mỉa mai trong cuốn “Tàn lụi” tiểu thuyết tôn giáo của nhà văn nổi tiếng Graham Green: “Khi một người không có gì khác để tự hào, thì anh ta tự hào về những vấn đề cao siêu của anh ta” (Tàn lụi, bản dịch của Ðặng Thiền Miễn, nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1990, trang 27).
Trong tháng sáu, chúng ta tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu một cách đặc biệt hơn. Trái Tim Chúa Giêsu là trường dạy đạo đức. Chúa phán: “Hãy học với Cha, vì Cha hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. “Hãy yêu thương nhau, như Cha đã yêu thương chúng con”. Nếu mỗi ngày, mỗi người chúng ta làm được vài việc hiền lành, khiêm nhường, bác ái, đối với kẻ khác, và cũng khuyến khích cộng đoàn mình làm như thế, thì bầu khí đạo đức sẽ dần dà phát triển, làm cho đạo Chúa được sáng lên, góp phần vào việc chấn hưng đạo đức của đồng bào ta, trong giai đoạn lịch sử, mà đạo đức sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, và nền thịnh vượng của Ðất Nước ta.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 6/1991