TRUYỀN GIÁO
Phần 1
Các bài giảng
Yếu đuối
Tháng sáu vừa qua, tôi dự thánh lễ mở tay của một tân linh mục. Bài giảng hôm đó tập trung vào sự ca tụng chức linh mục. Ðang khi cha giảng lên giọng hùng hồn thao thao bất tuyệt, hết lời nâng cao linh mục, thì tôi thấy một cha trước mặt tôi ngủ gục ngon lành. Ngài là vị chức cao quyền trọng, trong phẩm phục đại lễ, ngồi ghế danh dự trên cung thánh, trước mặt cộng đoàn dân Chúa. Nhìn ngài ngủ gục, tôi thấy thương ngài. Tôi thông cảm thực tế yếu đuối của ngài.
Từ hình ảnhh ấy, tôi nghĩ tới những yếu đuối của chính tôi. Tôi muốn lướt thắng mọi thứ yếu đuối. Nhưng chúng vẫn còn đó, như những gánh nặng, như những thách đố. Sự cảm nghiệm về những yếu đuối của mình là rất sống động và thường xuyên. Vì thế, trước trách nhiệm truyền giáo, tôi càng thấy mình quá yếu đuối. Do đó, tôi đã có những lựa chọn thích hợp với sự yếu đuối của tôi. Giờ đây, tôi xin phép chia sẻ với anh em những lựa chọn ấy.
Chọn lựa thứ nhất của tôi là: Vì rất yếu đuối nên tôi hết lòng cậy tin Chúa Kitô. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà tôi sống và thực thi tinh thần truyền giáo.
Sự tin cậy của tôi là nhìn thấy trước mắt sự yếu đuối của mình như một vực thẳm, đồng thời nhìn thấy tình xót thương của Chúa như một bàn tay cứu độ quyền năng. Càng nhìn rõ hai sự thực đó, tôi càng gắn bó với Chúa. Sự gắn bó này là một sự vươn lên vô điều kiện, một sự phó thác tuyệt đối. Nó không dựa chút nào vào công phúc gì của mình, mà hoàn toàn chỉ dựa vào lòng nhân lành của Chúa.
Có lúc tôi yếu đuối quá, chỉ còn biết lặp đi lặp lại mấy lời đơn sơ: “Lạy Chúa, xin thương xót con. Lạy Chúa, xin đừng bỏ con!”. Tôi cầu nguyện như người thu thuế ở cuối nhà thờ, như người phong cùi bên đường đợi Chúa đi qua, như người ăn trộm đóng đinh bên hữu Chúa.
Sự tin cậy phó thác như vậy là xác tín mình nghèo nàn, hèn hạ, khốn khó, chẳng có gì sẵn, ngoài sự đợi chờ ở Chúa. Ðợi chờ và tin tưởng cầu nguyện. Cầu nguyên và tin tưởng đợi chờ. Sẵn sàng đón nhận ý Chúa, vâng theo ý Chúa. Mọi hướng dẫn của Chúa trong lịch sử bao giờ cũng mang tính cách sáng tạo, để tiếp tục công trình tạo dựng ban đầu, hầu đưa vũ trụ và nhân loại tiến triển không ngừng về mục tiêu cứu độ. Vì thế, khi thấy sự hướng dẫn của Chúa có gì mới, không y hệt như trước kia, tôi sẽ hỏi lại Chúa. Và khi Chúa trả lời tôi bằng cách làm tôi xác tín rằng đường lối ấy sẽ cứu được nhiều linh hồn, thì tôi không còn cách nào khác là phải tuân theo sự hướng dẫn ấy.
Như thế, tin cậy Chúa Kitô, chính là nhờ Người, với Người và trong Người, thao thức với phần rỗi các linh hồn, tìm cách làm cho mọi người đón nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Sự tin cậy này phải là thường xuyên. Nhưng nó cần được đốt nóng lên một cách đặc biệt trong những thời điểm mạnh, đó là khi dâng thánh lễ, nguyện kinh nhật tụng, suy gẫm và xét mình sám hối.
Lỗi lầm thông thường của chúng ta về sự tin cậy là ít cầu nguyện, hoặc khi cầu nguyện, ta đã có những kết luận chọn sẵn, như để chỉ xin Chúa thông qua, chứ không có thái độ khó nghèo, đợi chờ sự hướng dẫn của Chúa và sẵn sàng đón nhận ý Chúa. Lỗi lầm của ta cũng còn là quan tâm đến quyền lợi cái tôi hơn phân rỗi các linh hồn. Ðôi khi quyền lợi cái tôi được che giấu tinh vi dưới những thứ quyền lợi của Hội Thánh, mặc dầu chính đáng, nhưng vẫn không so sánh được với phần rỗi các linh hồn. Thành ra, sự tin cậy của ta thay vì gây được bầu khí bình an tâm hồn, thì lại gây nên những sóng gió bất an, làm ta chao đảo.
Khi tôi thấy mình quá tệ, như muốn ngã lòng, tôi lại nghĩ tới những thái độ quá thương Chúa đã dành cho người con phung phá, cho kẻ làm công giờ thứ mười một, cho người đàn bà tội lỗi, cho kẻ trộm đóng đinh bên hữu Chúa. Nếu những thái độ quá thương ấy bị nhiều người trách cứ là những bất công, thì những bất công ấy đáng gọi là cao cả, đầy can đảm, nhờ vậy mà bao người được cứu rỗi. Khi nhìn theo góc độ ấy, tôi mới thấy rõ số người được cứu rỗi sẽ rất bất ngờ. Cái nhìn đó càng làm cho niềm tin cậy của tôi thêm táo bạo. Tuy nhiên, dù táo bạo tới đâu, niềm tin cậy của tôi vẫn nhỏ bé hơn lòng xót thương của Chúa.
Chọn lựa thứ hai của tôi là: Vì rất yếu đuối nên cách tôi làm chứng về Chúa sẽ là bắt chước những thái độ yếu của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu luôn tha thiết muốn làm chứng về Thiên Chúa. Satan biết điều đó. Nên nó cũng đi theo hướng đó mà cám dỗ Chúa. Ðại khái đề nghị của nó là: Ông nên làm chứng ông là Con Thiên Chúa bằng cách biến đá thành bánh. Ông nên làm chứng ông là người thánh, được thiên thần che chở, bằng cách ông từ mái đền thờ nhảy xuống an toàn. Ông nên làm chứng về quyền năng Chúa bằng cách ông cộng tác với tôi nắm trọn trong tay quyền cai trị muôn dân. Cả ba chước cám dỗ đều nhằm mục đích làm chứng cho Chúa, làm sáng danh Chúa, bằng cách phô trương quyền lực: Quyền lực của cải, quyền lực thần thiêng, quyền lực chính trị. Một quyền lực mạnh chứng tỏ một sức sống mạnh của một tôn giáo mạnh, làm vinh danh một Thiên Chúa mạnh. Cơn cám dỗ xem ra có lý. Nhưng Chúa Giêsu đã quyết liệt từ chối.
Các tông đồ có lúc cũng yêu cầu Chúa Giêsu có biện pháp mạnh đối với những dân thành không muốn đón tiếp Chúa. Các ông đề nghị khiến lửa bởi trời xuống đốt mấy thành ấy. Ðề nghị xem ra có lý. Nhưng Chúa Giêsu đã nhất mực từ chối.
Có lúc, dân chúng cũng đã muốn tôn vinh Chúa làm vua. Họ muốn Người nắm lấy cơ hội để trở thành người mạnh, người hùng, như thế sẽ có lợi cho đạo. Ý kiến ấy xem ra có lý. Nhưng Chúa Giêsu đã thẳng thắn từ chối.
Rồi khi bị treo trên thánh giá, Chúa Giêsu lại phải đối phó với một cơn cám dỗ cuối cùng, lần này do các thầy cả đưa ra. Cũng là cơn cám dỗ về quyền lực: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy làm chứng bằng cách nhảy xuống khỏi thánh giá đi, rồi chúng tôi sẽ tin”. Thách đố xem ra có lý. Nhưng Chúa Giêsu đã làm thinh.
Như vậy, từ hang đá Bêlem đến núi Calvariô, Chúa Giêsu luôn chọn thái độ yếu, đó là khiêm tốn, hiền lành, khó nghèo, thứ tha, phục vụ. Người muốn là kẻ gánh tội và đền tội cho nhân loại, chứ không phải kẻ đem quyền lực đến để thống trị và gây dựng uy tín cho mình.
Ðầy tớ không trọng hơn Thầy. Tôi phải bắt chước Người. Khi chọn bắt chước thái độ yếu của Chúa Giêsu, tôi không nghĩ đến sự làm chứng trước mặt người ta, cho bằng làm chứng trước mặt chính Chúa. Tôi muốn làm chứng cho Chúa thấy rằng tôi đi theo Chúa. Có thế thôi. Tôi tin rằng: Cái yếu của tôi là một chút từ bỏ mình. Nó chẳng là gì. Nhưng khi hoà vào những hy sinh bao la của Chúa Kitô, nó sẽ trở thành cái giá, mà Thiên Chúa đòi, để cứu rỗi cái linh hồn.
Càng ngày, tôi càng thấy các tông đồ ngày nay phải như những hạt giống, nếu có thối đi, mới nảy sinh được những mầm non tươi tốt. Chấp nhận thối đi là một chọn lựa yếu. Nhưng phải can đảm nhiều để dám chọn yếu. Và khi thấy mình đang thực sự thối đi trước mặt bạn bè và cộng đoàn tín hữu, người tông đồ cần cảnh giác và xin ơn rất mạnh của Chúa nâng đỡ mình, để khỏi tìm cách bù trừ cái đã và đang mất mát bằng một sự tự hào đạo đức. Thí dụ, thay vì coi mình là đầy tớ vô ích như Chúa dạy, người tông đồ đang là hạt lúa thối đi sẽ lại tự khoe mình đang đền tội lập công trên đường thánh thiện.
Chọn lựa thứ ba của tôi là: Vì rất yếu đuối nên tôi sẽ cộng tác với mọi người đang cùng Chúa Giêsu thăng tiến con người, đồng bào của tôi
Ðịa chỉ tôi được sai đến là con người, là nhân loại, là đồng bào Việt Nam của tôi hôm nay, nhất là những ngưòi nghèo khó. Tôi nghĩ tới lời Kinh Thánh: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”.
Nhân loại của tôi, đồng bào của tôi hôm nay đang nghèo khó nhiều thứ lắm. Họ cần được thăng tiến về mọi mặt. Ðối với tôi, Chúa Kitô vừa là mô hình thăng tiến, vừa là nguồn lực thăng tiến. Người là Ðường, là Sự Thực và là Sự Sống.
Trước hết, để thăng tiến, thì đồng bào của tôi cần xây dựng được những con đường liên đới tốt. Vậy xung quanh tôi, có biết bao người đang xây dựng những con đường như thế. Con đường như thế là những liên hệ của cuộc sống. Tại những liên hệ này người ta gặp nhau, thiết lập với nhau những mối dây tình nghĩa, tình thương, bè bạn, hợp tác. Ðó là những con đường vô hình. Nhờ những tuyến đường này mà ngưòi ta chuyên chở qua nhau những đỡ nâng, những liên kết, những thông cảm. Khi truyền giáo, Phúc Âm cũng dùng những con đường có sẵn đó để đến với đồng bào, và đồng bào cũng sẽ dùng những con đường đó để đến với Phúc Âm. Vì thế, truyền giáo là phải biết kính trọng và khích lệ những người đang làm nên và đang phát triển những con đường như vậy. Họ là những người cộng tác của Chúa Giêsu là đường. Dù họ là ai, trong một mức độ nào đó, họ đang sống Phúc Âm và truyền bá Phúc Âm.
Ngoài ra, để thăng tiến, thì đồng bào của tôi, cần tiếp nhận các chân lý đủ loại. Vậy, xung quanh tôi có biết bao người đang cung cấp cho nhau những chân lý cần thiết và hữu ích. Từ các chân lý sơ đẳng về cách ăn nết ở, cho đến các chân lý khoa học, qua tục lệ, qua giáo dục, qua tiếp xúc, qua sách báo và các phương tiện truyền thông. Tôi nghĩ rằng bất cứ chân lý nào cũng là tia sáng của trí tuệ Thiên Chúa và bất cứ ai dạy bất cứ chân lý nào cũng là những người cộng tác với Chúa Kitô là sự thực. Họ đáng được kính trọng và khích lệ. Dù họ là ai, trong một mức độ nào đó, họ đang sống đạo và làm việc truyền giáo.
Hơn nữa, để thăng tiến, thì đồng bào của tôi cần có một cuộc sống thể xác, tinh thần an vui thoải mái. Vậy xung quanh tôi, có biết bao người đang góp phần làm cho cuộc sống được tốt đẹp, biết bao người đang từng giờ cứu các cuộc sống khỏi tàn tạ và xấu đi, biết bao người đang hy sinh để người khác được sống. Họ đáng được kính trọng, như những cộng tác viên của Chúa Giêsu là sự sống. Dù họ là ai, trong một mức độ nào đó, họ đang sống Tin Mừng và loan báo Tin Mừng cứu độ.
Tháng sáu vừa qua, những khi theo dõi Mundial Italia 90 trên máy truyền hình, tôi hay nghĩ tới hơn một tỷ người trên khắp năm châu cũng đang sống những giờ phút theo dõi như tôi. Tôi có cảm tưởng là Chúa Giêsu cũng đang có mặt ở Mundial. Bởi vì, nếu Người là Ðường, là Sự Thực và là Sự Sống, thì dù Mundial có nhiều lạm dụng, vẫn đang cố xây dựng những con đường nối kết các dân tộc, nơi đây cũng là một trường học huấn luyện con người biết tôn trọng những sự thực và sự chính xác, nơi đây cũng là lễ hội, ca tụng những cuộc sống khoẻ mạnh, lanh lẹ, vui tươi, kỷ luật, đầy xã hội tính. Và như thế, sân banh cũng đang góp phần thăng tiến con người, một sự thăng tiến đòi hỏi nhiều đấu tranh thể xác và tinh thần.
Cái nhìn như trên cho tôi thấy, số người được Chúa gọi cộng tác với Chúa để thăng tiến con người là một số đông vô kể. Tôi cũng được gọi, nhưng được gọi là được gọi với bao người khác, để cùng với họ, thăng tiến con người, Phúc Âm hoá đồng bào của tôi. Tôi không được gọi riêng rẽ, nhưng được gọi cùng với những người khác. Có nghĩa là sự kính trọng dành cho người khác, hợp tác với người khác là một trách nhiệm của chính bản chất ơn gọi tông đồ.
Ở đây, tôi nghĩ cách riêng đến các giáo hữu, các nam nữ tu sĩ. Tôi rất biết ơn họ. Tôi muốn nói với họ rằng: Họ làm việc truyền giáo nhiều hơn tôi, nhiều khi hơn cả hàng giáo sĩ chúng ta.
Nói thực cho ngay, thì chính những người khác đang thăng tiến tôi. Tôi lãnh nhận nơi họ có khi nhiều hơn là tôi phục vụ họ. Ðiều đó sẽ là một tin mừng vừa đúng vừa dễ hiểu mà người truyền giáo có thể nói lên cho những người mình muốn truyền giáo cho. Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy cho ngưòi phụ nữ Samaria trên giếng Giacob. Chúa lên tiếng trước. Chúa xin bà chút nước uống. Nghe lời xin ấy, bà cảm thấy mình được chú ý, được kính trọng, bà thấy mình là người có ích, là người có khả năng làm ơn, là người có tiềm năng tốt. Ðó là một tin mừng lớn đối với bà, một tin mừng giải thoát bà khỏi mặc cảm, một tin rằng mở lòng trí bà hướng lên Ðấng có sức giải thoát bà khỏi tội lỗi và dẫn bà đến sự sống đời đời. Thế rồi, cuộc trao đổi đã từng bước đi lên. Sau cùng, người đàn bà tội lỗi ấy đã trở thành kẻ loan báo Tin Mừng rất nhiệt tình cho dân ngoại. Truyền giáo như thế là dùng chính những người tội lỗi, yếu đuối, hèn hạ làm người cộng tác, để rao giảng ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, và niền tin vào Chúa Kitô cứu độ. Chính họ là một bản tin hấp dẫn khiến nhiều người suy nghĩ.
ù
Ðể kết thúc bài giảng này, tôi xin kể một mẩu chuyện nhỏ. Cuối tháng 3, 1988, tôi ở Tây Ðức để trị bịnh. Hôm đó là ngày bác sĩ hẹn: Thứ hai, 22/3/1988, lúc 9h sáng, tại bệnh viện Lôretto, chị Mathilde dẫn tôi đi. Tới bệnh viện, chúng tôi lấy thang máy để lên phòng khám của bác sĩ. Khi cửa thang máy tự động khép lại, thì một bà già hối hả bước tới. Chúng tôi hiểu là bà cũng muốn lên lầu, nên chúng tôi giữ cửa lại, và mời bà vào phòng thang máy. Khi thang máy đang từ từ đi lên, thì bà già hỏi nhỏ cô Mathilde: Người ngoại quốc đứng bên chúng ta đây có phải là người Á Ðông hay không? Cô Mathilde thưa: Dạ phải. Bà già tiếp: Cách đây gần 30 năm, có một linh mục Việt Nam đã rửa tội cho con tôi. Từ đó, gia đình chúng tôi vẫn cầu nguyện cho ngài. Chúng tôi không biết bây giờ, ngài còn sống không, và ở đâu? Cô Mathilde thưa: Người ngoại quốc bên cạnh chúng ta là một Giám Mục người Việt Nam đấy. Tôi quay sang chào bà và hỏi: Con bà được rửa tội ở đâu? Năm nào? Bà thưa: Ở Elisabethkrankenhaus Freibourg, năm 1960. Tôi trả lời: Như thế chắc là tôi. Bởi vì hồi đó tôi là linh mục Việt nam duy nhất trú học tại đây. Nghe vậy, bà già sửng sốt, ứa nước mắt đứng lặng người.
Lúc đó, thang máy cũng vừa dừng lại. Chúng tôi bước ra. Bà yêu cầu chúng tôi đợi một chút. Vài phút sau, một thanh niên cao lớn đi tới. Bà giới thiệu: Ðây là Peter, đã được Cha rửa tội. Rồi bà kể: Bà lập gia đình muộn, lại bị sảy thai hai lần. Khi sinh được một bé trai, bà khấn với Chúa là suốt đời gia đình bà sẽ cầu nguyện cho linh mục nào rửa tội cho con bà, để nhờ việc lành nhỏ mọn ấy, xin Chúa gìn giữ con bà. Gia đình bà đã luôn trung thành giữ lời khấn xưa, hằng ngày vẫn cầu nguyện cho cha đã rửa tội cho Peter. Vợ chồng bà chỉ có Peter, là con duy nhất. Anh đang làm nghề luật sư. Anh rất hiếu thảo với cha mẹ. Ðúng là Chúa đã phù trợ cho con bà như bà đã khấn xin. Mấy hôm sau, tôi đến nhà bà. Tôi xem lại sổ gia đình bà, và đọc lại chữ tôi đã ghi rửa tội và đã ký tên ngày 08/12/1960.
Sự sắp xếp kỳ diệu của Chúa quan phòng để có sự gặp gỡ lạ lùng đầy bất ngờ đúng vào lúc tôi cần được nâng đỡ, đã giúp tôi càng tin cậy vào Chúa. Ðột nhiên, tôi thấy rất rõ Chúa có mặt trong đời tôi, đang đồng hành với tôi, và dùng nhiều người để nâng đỡ tôi. Tôi thấy bất cứ linh mục nào, dù yếu hèn đến như tôi, cũng có quyền tin cậy như vậy, Bởi vì, Chúa là Cha vô cùng thương xót.
Tuần tĩnh tâm Linh Mục giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, năm 1990