ÐỔI MỚI TÂM HỒN
Mở tâm hồn về phía những dự báo tôn giáo
Ðể tổ chức một cuộc lễ tôn giáo, như lễ Noen, chúng ta thường phải suy nghĩ từng tháng trước.
Suy nghĩ để chuẩn bị một sinh hoạt nào là nghĩ đến những dữ kiện kinh tế, xã hội, chính trị lúc này, với dự kiến những chuyển biến có thể xảy ra, để rồi dự báo về tình hình địa điểm, và thời điểm đã chọn cho sinh hoạt đó.
Một sinh hoạt tuy hoàn toàn tôn giáo, nhưng sẽ thực hiện được, hay không thực hiện được, có nhiều kết quả hay ít kết quả, cũng do sự biết để ý đến những dự báo về tình hình. Thông thường nhất là dự báo thời tiết cũng chẳng dám coi thường, phương chi những dự báo kinh tế, xã hội, chính trị.
Dự báo là một việc mà mỗi ngành nghề trong xã hội đều quan tâm. Làm mục vụ càng không được dửng dưng với những dự báo có liên quan.
Dự báo về tôn giáo, mà tôi đề cập ở đây, đòi hiểu biết con người hôm nay với những hoàn cảnh cụ thể của nó, rồi tìm xem nét nào về đời sống Chúa Kitô, hoặc lời giảng nào của Người, sẽ là Tin Mừng thích hợp hơn, cần thiết hơn cho họ, bây giờ và trong tương lai gần. Nét nào, lời nào của Chúa Kitô sẽ được họ dễ nhận thấy hơn, dễ tiếp nhận hơn và cũng dễ đọc thấy như là Tin Mừng cứu độ cho họ, để rồi mục vụ của chúng ta sẽ đặc biệt chú trọng vào những nét đó, những lời đó của Chúa Kitô.
Trong ý thức như vậy, tôi xin đưa ra những dự báo tôn giáo sau đây:
1/ Ðang tới một tình hình, mà những cá nhân và những nhóm người sống đời Nagiarét của Chúa Giêsu sẽ là mô hình thích hợp, loé sáng lên niềm hy vọng cứu rỗi
Thực vậy, khi lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các bậc phụ huynh, những thanh niên, thiếu nữ, người đã lập gia đình, hay không có ý lập gia đình, tôi thấy hầu như ai cũng bận tâm nhiều nhất đến chuyện gia đình. Trước hết là chuyện gia đình mình, rồi đến chuyện gia đình bà con lối xóm. Mong muốn của mọi người đều rất giống nhau, đó là: Mong sao trong nhà ngoài ngõ, bản thân mình được kính trọng, mình được thông cảm. Mong sao cho mọi người trong gia đình mình biết để ý đến việc nhà, biết lo cho nhau, biết chia sẻ tình thương và trách nhiệm đối với nhau, biết đùm bọc lấy nhau. Mong sao giữa gia đình mình với láng giềng, khu xóm có sự hoà thuận chân thành, tình nghĩa.
Một số người có vẻ ham vui, bê bối, nhưng khi được hỏi họ có muốn cha mẹ, chồng vợ, anh chị em, con cái họ cũng ham vui bê bối như họ không, thì họ quả quyết là không.
Như thế có nghĩa là mọi người đều tôn trọng mẫu người biết lo cho gia đình được êm ấm, và được thuận hoà với láng giềng, xã hội. Tâm lý người Việt Nam rất gắn bó với các giá trị truyền thống của nếp sống gia đình. Vì thế, khi nghe những chuyện lộn xộn xảy ra đó đây trong lãnh vực gia đình, người Việt Nam nào cũng tỏ ý lo ngại.
Ðang khi khủng hoảng về gia đình làm nên một đám mây mù, thì hình ảnh một gia đình êm ấm được coi như khoảng trời xanh mát, gợi lên niềm hy vọng sâu xa cho biết bao tâm hồn.
Trong hoàn cảnh như hiện nay, tôi có cảm tưởng là Chúa Thánh Thần đang thổi vào Giáo Hội những ơn soi dẫn mới, để có những người biết sống đời Nagiarét của Chúa Giêsu. Họ sẽ vẽ lên mẫu người của đời thường, lặng lẽ chu toàn bổn phận, âm thầm dệt nên cuộc sống bằng những sợi dây liên hệ mới.
Ðối với họ, tin không phải chỉ là chấp nhận những chân lý mạc khải, mà còn là tích cực xây dựng những liên hệ mới. Liên hệ mới đó là sống thân thiết với Thiên Chúa là Cha nhân ái. Liên hệ mới đó là tôn trọng mọi người, yêu thương mọi người, giúp đỡ mọi người, như Chúa đã đối xử với họ.
Niềm tin của họ là một niềm tin lên đường, năng động, chứ không phải một niềm tin ở thế tĩnh như kiểu chắp tay đứng nghiêm, tuyên xưng các chân lý.
Họ lên đường, là họ đến với Chúa, lao mình vào chương trình cứu độ của Chúa, với tất cả thái độ từ bỏ của mình và tuyệt đối tin cậy vào Chúa.
Họ lên đường, là họ hoà mình vào cuộc sống đám đông, để cùng với Chúa Kitô đồng hành với họ, chia sẻ với họ, để họ có thể thấy được Tin Mừng tươi mát này là: Họ được Chúa thương yêu, họ được Chúa gọi, họ được Chúa kính trọng, họ được Chúa đợi chờ.
Họ lên đường, là họ dọn đường cho Chúa bằng những lời nói và cử chỉ gói ghém tình người, bằng những gương sáng về sự tận tâm chu toàn bổn phận.
Nhiều lần, trên đường phố Long Xuyên, tôi gặp thấy bên kia đường, trong các người đi ngược chiều với tôi, có những nụ cười, có những vẫy tay, có những cái nhìn thân thương gởi cho nhau. Tuy lặng lẽ, tuy chớp nhoáng, tuy bé nhỏ tầm thường, nhưng đối với tôi và đối với họ, đó là những ngọn gió mát của đời thường mà lại khó quên.
Kinh nghiệm này giúp tôi hiểu giá trị của những việc thường. Chúa Giêsu chỉ để lại một hình ảnh huy hoàng nhất khi đi vào thành Giêrusalem cách trọng thể. Còn những hình ảnh của đời thường thì vô số kể, suốt 30 năm ở Nagiarét. Những hình ảnh của đời thường ấy đã là men là muối, ngấm vào từng tâm hồn, gây ảnh hưởng sâu xa và lâu dài.
Là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta đừng quên giới thiệu những hình ảnh đẹp đó. Giới thiệu bằng chính đời sống chúng ta. Những hình ảnh đẹp của đời thường đang thực sự cần cho thời điểm hiện nay của Dân Tộc ta, của Hội thánh Việt Nam ta. Ðó cũng là một cách truyền giáo rất hợp thời, đem lại nhiều kết quả tốt.
Ngày 11/09/1989 dịp kỷ niệm 50 năm thành lập gia đình “Petites Soeurs de Jésus”, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói với những cộng đoàn tiểu muội những lời sau đây có thể áp dụng cho chính chúng ta: “Với những phương tiện tầm thường của cuộc sống thường ngày, chúng con làm cho các môi trường khác nhau nhìn thấy chúng con sống gần họ, và sống với họ. Nhờ đó, họ đọc được trực tiếp Tin Mừng qua những phản ảnh trung thực của đời sống chúng con. Những phương tiện tầm thường là những quan hệ với láng giềng, những liên kết do công việc, những bước liên đới với những người mà chúng con tới, vì hạnh phúc hoặc vì thử thách của họ. Phương tiện tầm thường còn là thái độ chúng con sẵn sàng nghe họ, khuyên họ, giải toả những bối rối của họ khi họ gọi đến chúng con. Phương tiện tầm thường cũng là sự chúng con cầu nguyện cho họ, sự chúng con tham dự các lễ và các kỷ niệm của họ. Những cử chỉ khiêm tốn nhất của đời thường đều có thể nói về Chúa Kitô”.
Những lời trên đây của Ðức Thánh Cha khuyến khích chúng ta năng suy gẫm về Thánh Gia nói chung, đời Chúa Giêsu tại Nagiarét nói riêng. Mục vụ gia đình phải phát xuất từ đó. Mục vụ gia đình không chỉ gồm có một số nghi thức tôn giáo như hôn phối, rửa tội, thêm sức, xức dầu, an táng... mà còn là xây dựng những con người quân bình, có tinh thần trách nhiệm và biết chăm sóc các liên đới. Mục vụ gia đình là yếu tố quyết định cho mục vụ giáo xứ.
Ngày 16/10/1989 đài BBC loan tin: Tại nước Anh hiện nay cứ 4 đứa trẻ sinh ra thì có một đứa là con ngoại hôn. Và cũng tại nước Anh hiện nay, số thiếu niên bỏ gia đình ra đi “Bụi đời” mỗi năm là khoảng trên 100.000. Tình hình trên đây tại một nước văn minh, đa số dân theo Thiên Chúa Giáo, cho ta thấy ở bất cứ đâu, mô hình gia đình vẫn là điều phải luôn nhắc tới, để tránh những đổ vỡ có thể thành dây chuyền trong xã hội, và trong Giáo hội.
2/ Ðang đi tới một tình hình mà những cá nhân và những cộng đoàn đức tin biết nêu cao tinh thần hoà giải của Ðức Kitô, sẽ là mô hình thích hợp để làm chứng về Chúa là Cha giàu lòng thương xót
Chiến tranh đã chấm dứt trên Ðất Nước ta. Nhưng các vết thương chiến tranh vẫn còn. Biết bao nhiêu là thứ vết thương loại đó. Xem ra những vết thương trong lòng, còn sâu hơn là vết thương trên các cơ sở vật chất. Giữa người với người, vẫn còn nhiều xa cách, nhiều buồn phiền, nhiều mặc cảm, nhiều nghi ngờ, nhiều đố kỵ.
Tình hình như thế đặt ra cho Hội Thánh Việt Nam một thách đố lớn, đó là: Người tin Chúa có khả năng xây dựng sự hoà giải trong gia đình, trong khu xóm, trong làng xã, trong Ðất Nước không? Người tin Chúa và các cộng đồng tin Chúa có là những mẫu gương hoà giải hay không? Họ có thực sự là những dụng cụ bình an “Ðem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm” không?
Thách đố đó cũng được đặt ra nhiều nơi trên thế giới. Hội Thánh phải trả lời. Do đó, nhiều cộng đoàn đức tin đã coi tinh thần hoà giải là một cách làm chứng về Chúa có tính cách thời đại. Trước đây, ba lời khấn là cách tận hiến cho Chúa và làm chứng về Chúa. Nay do nhu cầu thời đại, cuộc sống hoà giải được nhấn mạnh và đề cao, như một dấu chỉ đẹp của sự tận hiến cho Chúa.
Trong tạp chí “Etudes”, tháng ba,1989, bài “La vie religieuse, du neuf et de l'ancien” tác giả Henri Madelin, S.J., tả cho thấy tinh thần hoà giải đang trở thành một đòi hỏi cho đời sống đạo nói chung và đời tu nói riêng. Bởi vì đang có nhiều vấn đề khác biệt gay gắt trong nội bộ Giáo Hội, trong nội bộ các cộng đoàn đức tin, giữa cũ và mới, giữa già với trẻ. Cũng đang có nhiều tranh chấp trong xã hội. Và cũng đang có nhiều lủng củng trong các gia đình.
Tạp chí Jésus-Caritas, số 233, 1989 khi nói về một tổ chức tu trì mới được thành lập mang tên “La Communauté du chemin neuf” cũng đã giới thiệu một đặc điểm của tổ chức đạo đức này, đó là đời sống hoà giải, coi đặc điểm này như một cách làm chứng về Chúa thích hợp với thời điểm hôm nay.
Ðức đương kim Giáo Hoàng đã nhiều lần nhắc tới tinh thần hoà giải. Trong chuyến viếng thăm Nam Triều Tiên và Indonésia mới rồi, Ngài đã đặc biệt nhấn mạnh tới điều đó.
Hoà giải không phải là tránh mọi tranh luận. Nhưng hãy tranh luận trong tinh thần bác ái để tìm sự thực. Tranh luận cũng có thể ví như tranh banh. Ðánh banh, chứ không đánh nhau. Nhắm đá người hơn nhắm đá banh, đó là một lối chơi rất xấu.
Hoà giải cũng không phải chỉ là một sự sắp xếp, miễn sao đâu an phận đó, nhưng là một sự sắp xếp trên nền tảng hợp tình hợp lý. Trong chiều hướng đó, Hội đồng Giám Mục Ấn Ðộ đã gởi cho Thượng hội đồng Giám Mục tại Toà thánh một tài liệu có đoạn như sau:
“Giáo Hội, trong trách nhiệm hoà giải, cũng phải tỏ ra liên đới cách riêng với những người nghèo và những người sống ngoài lề xã hội. Giáo Hội phải hoà mình vào những bận tâm chính đáng của những người lao động bị lợi dụng, những người nông dân không có đất, những giai cấp và sắc tộc ít được phát triển và bị bỏ rơi, những người thất nghiệp nghèo túng càng ngày càng tăng. Giáo Hội phải bênh vực họ.
Ðể chu toàn trách nhiệm hoà giải, Giáo Hội cũng phải tiến hành công việc từ gốc. Trách nhiệm hoà giải này được soi sáng bởi đức ái đích thực của Chúa Kitô, đòi hỏi trước hết phải giúp người bị khổ cực có những sáng kiến để tự giải thoát chính mình, tiếp đó là tìm ra nguyên cớ gây nên khổ cực, để rồi tìm cách loại trừ những nguyên nhân đó!” (Le rôle des laics dans la vie et dans la mission de l' Eglise en Asie, Cité du Vatican, 1984, tr.162).
Hoà giải cũng không phải là xoá đi một quá khứ xích mích nghi kỵ, dửng dưng lạnh nhạt với nhau, mà còn là hướng về phía trước với tinh thần tin tưởng nhau, tôn trọng nhau và hợp tác với nhau. Chiều hướng hoà giải này được thấy rõ trong đường hướng mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Indonésia
Indonésia là một nước gồm 13.000 hòn đảo, đa số dân theo Hồi Giáo. Nhiều tôn giáo có mặt, nhưng thuộc thiểu số ít ỏi và rải rác. Ðể xây dựng khối hợp nhất, nhà nước Indonésia đã đưa ra chủ thuyết Pancasila, mà bất cứ công dân nào trong nước, đều phải tôn trọng. Chủ thuyết Pancasila gồm 5 nguyên tắc:
1- Tin tưởng vào Ðấng tối cao
2- Xây dựng một nhân loại công bình và văn minh
3- Bảo vệ nền thống nhất Tổ quốc Indonésia
4- Tôn trọng nền dân chủ được hướng dẫn do sự khôn ngoan của các dân biểu thảo luận với nhau
5- Thiết lập công bình xã hội cho toàn dân Indonésia
Giáo hội Công Giáo tại Indonésia cũng soạn một chương trình mục vụ theo phương hướng đó. Hội Ðồng Giám Mục mở những lớp huấn luyện để đào tạo những người công giáo có khả năng tham gia việc nước. Hội Ðồng Giám Mục và từng địa phận có những hội nghị định kỳ để kiểm điểm và thảo luận về đề tài Cộng đồng Công Giáo đã phấn đấu thế nào để góp phần đưa xã hội Indonésia đi lên. Với cách đó, Giáo Hội Indonésia muốn làm chứng về Chúa, và xây dựng một chỗ đứng trong lòng dân tộc (Sách dẫn trên, tr. 60).
Qua những hoạt động hoà giải tích cực trên đây, khối thiểu số người công giáo trong các nước ấy đã giới thiệu được vẻ đẹp của Hội Thánh, của Thiên Chúa với dân tộc của họ. Nhờ đó, mà Nước Thiên Chúa được mở rộng trong các tâm hồn.
Khi Chúa Giêsu coi trọng sự hoà giải với nhau hơn sự dâng lễ cho Chúa, thì rõ ràng Chúa đòi người hoà giải phải có một cái nhìn xa hơn là những quyền lợi trước mắt, dù đó là quyền lợi của Hội Thánh mình, và phải đi từ một động lực sâu xa hơn là lòng mến mộ sự bình an. Cái xa hơn ấy, cái sâu hơn ấy, chính là phần rỗi các linh hồn, chính là Nước Thiên Chúa, chính là tình thương Cha trên trời, mà chúng ta có bổn phận phải cộng tác vào.
3/ Ðang đi tới một tình hình mà những cá nhân và những cộng đoàn đức tin sống đúng mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, sẽ là mô hình thích hợp để mở rộng Nước Thiên Chúa
Từ ít lâu nay, khi ý thức truyền giáo trở nên sôi động, và lòng mến yêu Hội Thánh trở thành năng nổ, thì tại nhiều nước Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh và Á Châu, đã nổi lên nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề hội nhập của Hội Thánh địa phương.
Ðại khái là: Như Chúa Giêsu đã nhập thể thế nào thì Hội Thánh của Người cũng phải nhập thể như vậy. Hội Thánh hiện hữu trong một dân tộc phải là Hội Thánh hiện hữu với dân tộc đó, gắn bó với dân tộc đó. Hội Thánh phải hoà mình vào bất cứ sự gì là tốt, là hay, là lành, là đẹp của dân tộc đó. Chỉ có một cách như thế, Hội Thánh mới phát triển được, và Nước Thiên Chúa mới mở rộng được theo thánh ý Chúa.
Mới rồi, tuần báo L'Osservatore Romano của Toà Thánh, số ra ngày 03/10/1989, có một bài giúp ta suy nghĩ về vấn đề này. Bài tựa đề: “Le Pacifique, centre du monde un défi pour le Christianisme”. Trong bài này tác giả Richard Friedli, OP., đã đưa ra những dữ kiện xã hội, chính trị, tôn giáo có tính cách dấu chỉ của thời đại. Tóm tắt như sau:
1- Hiện nay, và trong tương lai thấy được, nơi đông dân nhất trên thế giới là Á Châu, đặc biệt là vùng Thái Bình Dương. Chỉ ít năm nữa thôi, quá nửa nhân loại sẽ là người Châu Á. Châu Á này là đất của những truyền thống lâu đời, của những nền văn hoá vững chắc và của những ý thức hệ mạnh. Tại đây, người công giáo chỉ làm nên được những cộng đoàn nhỏ nhoi lác đác.
2- Hiện nay và trong tương lai thấy được, Âu Châu là vùng Thiên Chúa Giáo trước đây phồn thịnh đang càng ngày càng xuống về dân số. Năm 1980, 19% nhân loại ở tại Âu Châu. Năm 2000 chỉ còn 15%. Và tới năm 2090 sẽ chỉ còn 6%. Năm 2000, trong số 10 thành phố đông dân nhất trên thế giới, sẽ thấy 8 là thuộc về thế giới thứ ba. Tình hình đạo tại Âu Châu cũng đang xuống.
3- Càng ngày số lượng người theo Thiên Chúa Giáo càng chuyển sang Châu Mỹ La Tinh và Châu Phi. Ðến năm 2000, Thiên Chúa Giáo sẽ là đạo của thế giới thứ ba nói chung, và của Châu Mỹ La Tinh nói riêng. Chứ không còn là đạo của Châu Âu nữa.
4- Nếu coi những nơi đông dân nhất là những trung tâm, thì Á Châu sẽ là trung tâm nhân loại, và Châu Mỹ La Tinh sẽ là trung tâm Công Giáo.
Còn Âu Châu sẽ trở thành một lục địa già, đứng ngoài rìa thế giới.
Trong một tình hình đổi mới như vậy, Hội Thánh phải có những suy nghĩ thế nào về thần học và mục vụ truyền giáo, để Chúa Giêsu mà Hội Thánh tuyên xưng là ánh sáng thế gian, hy vọng của nhân loại, Ðấng cứu độ muôn dân, được coi là đang có mặt thực sự ở những vùng trung tâm nhân loại gọi là ngoại đạo đó. Nếu Chúa Giêsu không thực sự có mặt bây giờ ở những trung tâm nhân loại hầu hết ngoài Thiên Chúa Giáo, thì còn gì là chức năng của Người: “Ánh sáng thế gian, hy vọng của muôn dân, Ðấng cứu độ muôn dân”.
Những dữ kiện trên đây chủ yếu kêu mời các tín hữu và các nhà thần học đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Phải đào sâu một cách cụ thể, đi từ những chiều kích của thế giới hiện nay.
Nếu Chúa Kitô thuộc về thế giới, với chức danh Ðấng Cứu Ðộ và hoà bình của thế giới, thì Người không phải là “sở hữu” riêng của người công giáo. Trái lại, Người đi trước họ, và chờ đợi họ ở trong các tôn giáo, trong các nền văn hoá và trong các dân tộc. Vì thế, những người tín hữu của xứ đạo “toàn cầu” sẽ đón nhận Chúa Kitô một cách rộng hơn và sâu xa hơn cách mà người tín hữu Âu Châu đã có. Bằng cách đón nhận Chúa Kitô như thế, đạo Công Giáo đại kết của chúng ta (Catholicité, oecuménicité) sẽ mở rộng về phẩm chất. Và lúc ấy, theo cách nói của Yves Congar, chúng ta sẽ từ Công Giáo lượng (Catholicité quantitative) chuyển sang Công Giáo phẩm (Catholicité qualitative).
Bài báo trên đây cho phép tôi có mấy suy nghĩ như sau:
1- Các người công giáo toàn cầu chỉ làm nên một “giáo xứ” của Nước Thiên Chúa bao la. Nước Thiên Chúa cũng còn nhiều “giáo xứ” khác. Những “giáo xứ” này, tuy không gọi là công giáo, nhưng phần nào cũng có ánh sáng Chúa Kitô.
Nếu so sánh khối người ngoài công giáo với khối người công giáo về phẩm chất lương thiện, công bình, bác ái, ta sẽ thấy số người tốt ngoài công giáo là rất đông, và số người không tốt trong công giáo không phải là ít.
2- Nếu Hội Thánh Việt Nam là một thiểu số nhỏ nhoi, nằm trong một trung tâm nhân loại đông đúc có nhiều tôn giáo lâu đời, có nhiều nền văn hóa vững chắc, và có nhiều truyền thống dân tộc bền bỉ, thì cách thích hợp nhất để Hội Thánh ta sống đạo và truyền đạo tại đây là, tuy ta vẫn gắn bó với những gì thuộc riêng Hội Thánh ta, ta luôn coi sự hội nhập vào những cái tốt chung của dân tộc mình, là một bổn phận hàng đầu. Bởi vì những cái tốt chung thực sự cũng phản chiếu ánh sáng Ðức Kitô. Chúng là dấu chỉ sự có mặt của Chúa Kitô, Ðấng cứu độ muôn dân, trong lịch sử Ðất Nước ta. Thiết tưởng cách đó sẽ rất hữu hiệu để chuẩn bị vừa cho Hội Thánh ta, vừa cho đồng bào ngoài công giáo, được đón nhận vương quyền Thiên Chúa.
Khi ta biết nhìn nhận bất cứ ai có phẩm chất tốt đều thuộc về Ðức Kitô và do ơn của Ðức Kitô, ta sẽ thấy phạm vi “công-giáo-phẩm” là rất bao la, là rất phong phú, là rất đông đảo. Thiết tưởng cái nhìn lạc quan như thế sẽ giúp chúng ta hiểu hơn tính cách hữu hiệu của mầu nhiệm cứu độ của Ðức Kitô, và sự thành công tuyệt diệu của lòng thương xót Chúa. Chỉ có một điều đáng ngại, đó là không biết chính chúng ta đang khi thuộc về “công-giáo-lượng”, có thực sự thuộc về “công-giáo-phẩm” không?
3- Nếu Châu Mỹ La-tinh nói riêng và thế giới thứ ba nói chung đang trở thành trung tâm Thiên Chúa Giáo, thì ta nên quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề nóng bỏng đang đặt ra cho các giáo hội địa phương tại các nơi ấy. Họ đang phải đối phó những thách đố nào, và họ đang giải quyết ra sao? Thiết tưởng Hội Thánh Việt Nam có những hoàn cảnh giống họ hơn giống các giáo hội địa phương tại Âu Châu.
Ðể có những hiểu biết rõ hơn và sâu hơn về những quan điểm trên đây, xin các Cha đọc kỹ lại cuốn “Giáo Hội Chúa Kitô” và mấy tác phẩm kế tiếp về Giáo Hội do Cha Thân văn Tường biên soạn.
Nếu các dự báo trên đây được mỗi người chúng ta quan tâm trong nhận thức và trong thực hành, thì giáo xứ ta, giáo phận ta và Giáo Hội Việt Nam ta sẽ càng ngày càng sống động bởi sức sống của Thiên Chúa, và ta sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao Tổ Quốc Việt Nam lên.
Ðối với những ai muốn xây dựng uy tín cho cộng đoàn đức tin của mình nói riêng, và cho Giáo hội Việt Nam nói chung, thiết tưởng những dự báo tôn giáo trên đây cũng là những chỉ dẫn thích hợp. Những tổ chức phô trương chỉ là những uy tín rất nhỏ, và chỉ trong nội bộ hẹp, nhiều khi lại gây hậu qủa bất lợi cho đạo về phía những người ngoài công giáo. Ðang khi đó, mục vụ gia đình, mục vụ hoà giải và mục vụ nhập thể “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” sẽ chuyên chở Tin Mừng cứu độ một cách thanh thản qua những tuyến đường, vừa trong Hội Thánh, vừa ngoài Hội Thánh, vừa với những sinh hoạt tôn giáo, vừa với những công tác xã hội, vừa với động lực Phúc Âm, vừa với động lực dân tộc. Một mục vụ như thế sẽ không nhằm phần thắng cho cá nhân mình, cho cộng đồng của mình, mà cho hạnh phúc của mọi đồng bào, cho phần rỗi các linh hồn, cho vương quyền Thiên Chúa.
“Chúng ta tận dụng những cái hay trong kho tàng văn hóa, mà xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin, phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc cùng chung sống trên Quê Hương, và trong cộng đồng Hội Thánh này”. (Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. 1980, số 11)
Tuần tĩnh tâm Linh Mục Giáo phận Long Xuyên, năm 1989