Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-

 NÓI VỚI NỮ TU
Tĩnh tâm các Nữ Tu
Dòng Chúa Quan Phòng Cù Lao Giêng
tháng 6/1992         -1992-

 TÂN PHÚC ÂM HOÁ
Tuần tĩnh tâm linh mục giáo phận Long Xuyên - 1993

 HUẤN LUYỆN TRƯỜNG KỲ LINH MỤC - 1994
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 3/1995                 - 1995
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, 1996                 - 1996
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 10/1997             - 1997
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 5/1999             - 1999
 CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ  - 1999
 ÐẦY TỚ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN  - 1999
 -*-
 

Một đức tin
đã làm Chúa Giêsu ngạc nhiên vui sướng

 

Cuối năm 1991 vừa qua, có một bản tin tôn giáo đã kéo chú ý của tôi một cách đặc biệt, đó là bản tin về tình hình tôn giáo tại Ba Lan.

Ba Lan là một nước hầu như toàn tòng công giáo, là quê hương của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, là nơi có một hàng Giáo phẩm mạnh, có một đội ngũ linh mục tu sĩ đông đảo, có một Tổng thống công giáo ngoan đạo, có một cơ chế chính trị tự do trăm hoa đua nở, có sự trợ giúp lớn lao của các cường quốc kinh tế.

Hội Thánh trong một Ba Lan như thế hiện nay ra sao?

Trong tờ “Témoignage Chrétien” số ra ngày 26/10/1991, tác giả Elizabeth Kulakowska, đã mở đầu bài báo của mình như sau: “Thời vàng son của Công giáo Ba Lan đã chấm dứt với sự chấm dứt của chế độ Cộng Sản tại Ba Lan”. Rồi tác giả đưa ra những chi tiết cụ thể nói lên tình hình suy thoái của công giáo Ba Lan hiện nay.

Chẳng hạn, dưới chế độ Cộng Sản, các Giám Mục và linh mục là những điểm tựa có uy tín lôi kéo được niềm tin của đông đảo quần chúng. Nay, trong chế độ mới, đứng trước các vấn đề mới của nền văn minh tự do dân chủ, khoa học thực dụng, các vị ấy không còn được dân chúng coi là điểm tựa nữa. Hơn thế, nhiều người Ba Lan bây giờ không ngại coi các vị ấy là một giai cấp độc tài, lạc hậu tôn giáo, thay thế một giai cấp độc tài lạc hậu chính trị đã ra đi. Thời chống Cộng, số người công giáo Ba Lan ủng hộ lập truyền xã hội của Hàng Giáo phẩm, giáo sĩ của họ lên tới 98%. Người ủng hộ lập trường xã hội của các ngài tụt xuống, chỉ còn 28%. Mới trong hai năm dưới chế độ tự do, tỷ lệ người công giáo đi lễ Chúa nhật đã sút giảm nhiều. Trước đây là 90%, nay chỉ còn 50%. Số phá thai hiện nay tại Ba Lan được kể là cao nhất tại Aâu châu. Số linh mục giã từ áo chức cũng tăng lên.

Tình hình tôn giáo suy thoái tại Ba Lan cảnh giác tôi điều này là: Nếu Hội Thánh tại Việt Nam không được chuẩn bị kỹ ngay từ bây giờ, thì khi Ðất Nước mở rộng ra, đạo Chúa sẽ không tránh được những suy thoái còn trầm trọng hơn tại Ba Lan nhiều.

Vì lợi ích chung, tôi thấy có bổn phận đưa ra lời cảnh giác đó.

Thời điểm đang tới là thời điểm thị trường. Ðời sống xã hội sẽ là một cái chợ bao la. Trong cái bao la ấy sẽ bày bán các mặt hàng kinh tế, sẽ có những cọ xát của nhiều nền văn hoá, sẽ có những so sánh của nhiều tôn giáo.

Thị trường nào cũng đầy quảng cáo, cũng có cạnh tranh, có phê bình, có so sánh. Hàng hoá nào cũng tự quảng cáo là mình tốt. Nền văn hoá nào cũng tự cho mình là đẹp. Tôn giáo nào cũng khẳng định mình là đạo đức. Phải nói rằng: Sẽ có nhiều cái tốt hấp dẫn, và cũng có nhiều cái xấu hấp dẫn hơn những cái tốt.

Trong một tình hình như vậy, sẽ không lạ gì, nếu có người công giáo cho rằng họ gặp được nhiều cái hấp dẫn ngoài Hội Thánh hơn là trong Hội Thánh, để rồi dựa vào lý do đó, họ dửng dưng với Hội Thánh, hoặc xa lìa Hội Thánh.

Như vậy, để đối phó với những nguy cơ dẫn tới suy thoái đức tin, tôi thấy lúc này cần phải chuẩn bị kỹ. Một trong những cách chuẩn bị mà tôi nghĩ tới đầu tiên, đó là cộng đoàn chúng ta và chính chúng ta phải có một đức tin thực chất, và biết diễn tả đức tin ấy bằng các việc làm có chất lượng với phong cách hợp thời. Và đó chính là đề tài những buổi nói chuyện trong tuần tĩnh tâm này. Tôi sẽ gợi ý theo Kinh Thánh.

ù

Trước hết, giờ đây, tôi xin nói về một đức tin đã làm Chúa Giêsu ngạc nhiên vui sướng.

Trong Phúc Âm có hai trường hợp cho thấy Chúa Giêsu tỏ ra ngạc nhiên. Trường hợp thứ nhất là khi Ngài ngạc nhiên vì các người đồng hương của Ngài không tin Ngài. Trường hợp thứ hai là khi Ngài ngạc nhiên vì viên sĩ quan ngoại giáo đã tin vào Ngài. Ta nên nhìn kỹ đức tin của các người đồng hương với Chúa Giêsu và đức tin của viên sĩ quan ngoại giáo, để xem đức tin của người ngoại giáo này có cái gì tốt đẹp hơn đức tin của các người đồng hương với Chúa, khiến Chúa ngạc nhiên vui sướng.

 Ðức tin dân thành Nagiarét

Phúc Âm thánh Mátthêu, đoạn 13, phần cuối tả lại sự Chúa Giêsu trở về thành Nagiarét là quê hương Ngài. Các người đồng hương của Ngài rất biết Ngài. Họ biết rõ tên tuổi Ngài, lý lịch Ngài, bố mẹ tên gì, bên nội có ai, bên ngoại có ai, nhà ở xóm nào, làm nghề gì. Họ quá quen với giọng nói Ngài, với khuôn mặt sắc da của Ngài, với dáng đi của Ngài. Họ đã nhiều lần tiếp xúc với Ngài. Thời gian quen biết Ngài là từng tháng, từng năm. Một điều rất chắc chắn là họ đã nhìn thấy Ngài tận mắt, đã nói chuyện với Ngài nhiều lần, đã sống gần Ngài, đã làm việc chung với Ngài nhiều năm. Về mặt đó, họ hơn hẳn người sĩ quan ngoại giáo. Họ còn hơn người sĩ quan ngoại giáo ở chỗ đức tin của họ được trang bị bởi nhiều chân lý tôn giáo. Họ biết những gì phải tin, phải xin, phải chịu, phải giữ. Ðức tin của họ khởi đi từ những bài học có sẵn, được bồi dưỡng bằng các lễ lạy, các cuộc họp tại hội đường. Sinh hoạt đức tin của họ là cử hành các lễ nghi, đọc kinh, giữ luật đạo, và học hỏi lẽ đạo.

Không ai dám nói là họ khô khan. Nhưng dù với một nếp sống như thế, và dù với những tiếp xúc với Chúa Giêsu như vậy, họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu là Ðấng cứu thế mà các tiên tri đã loan báo trên suốt lịch sử từng ngàn năm.

Xem ra có một cái then vô hình đã chặn cửa lòng họ, xem ra có một cái chốt vô hình đã đóng chặt lòng họ, không cho Tình-Yêu-Cứu-Ðộ của Thiên Chúa đi vào. Cái then đó, cái chốt đó, chính là sự tự mãn. Họ cho rằng sống đức tin như họ đang sống với những lề luật và các lễ nghi là đã đủ rồi. Họ không thấy đức tin của mình cần phải được cứu. Và cho dù họ thấy đức tin của mình cũng cần được cứu, họ lại tưởng rằng chỉ cần đánh đuổi quyền lực đế quốc Rôma ra khỏi bờ cõi là xong. Họ không nghĩ rằng cái cần phải đánh đổ trước hết chính là tính tự mãn của họ. Không những họ không nghĩ tới chuyện đó, mà còn làm nhiều cách để bảo vệ và nuôi dưỡng cái tự mãn truyền thống ấy. Chính vì vậy mà lòng họ không mở ra được. Họ vẫn là người có đức tin, một đức tin vững, nhưng là một đức tin đã trở thành khô cằn, cứng cỏi, khép kín.

 Ðức tin của viên sĩ quan ngoại đạo

Bây giờ, chúng ta nhìn vào đức tin của viên sĩ quan ngoại đạo, mà Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 8, đã thuật lại.

Ông là người ngoại giáo, rất ít biết về đạo, chỉ nghe nói sơ sơ về Chúa Giêsu. Ông là người ngoại quốc thuộc thành phần quân đội đế quốc Rôma. Ôngnắm trong tay một số quyền lực. Ông có thể lợi dụng địa vị của ông để mời công dân Giêsu tới nhà ông. Nhưng ông đã không làm như vậy, ngược lại, tuy là người có địa vị, có quyền lực, ông đã lên đường đi đến với Chúa Giêsu.

Khi nghe tin Chúa Giêsu có nhã ý đến nhà ông, ông đã khiêm tốn nói: “Tôi không đáng Ngài bước chân vào nhà tôi”. Ông không ngại nói lời đó trước mặt nhiều người. Ông nhận biết mình không có gì gọi được là xứng đáng để Chúa đến cả. Ông không là người có đạo. Ông không chịu phép cắt bì. Ông không biết luật đạo. Mặc dầu ông có làm đôi việc lành, nhưng ông không tự mãn chút nào về các việc lành ấy. Ông càng không tự mãn mảy may nào về địa vị của ông. Ông chỉ cậy tin vào quyền năng vô biên của lòng thương xót Chúa mà thôi. Thái độ khiêm tốn của ông vừa sâu sắc trong nội tâm, vừa can đảm trong diễn tả.

Với thái độ khiêm tốn chân thành ấy, ông đặt hết niềm cậy trông vào Chúa Giêsu. Niềm cậy trông này không phải chỉ là một tiếng kêu cầu mà còn là một tình nghĩa chân tình gởi tới Chúa Giêsu. Tình nghĩa ấy là một lựa chọn. Bởi vì ông có thể dành tình nghĩa ấy cho kẻ khác. Nhưng ông đã dành tình nghĩa ấy cho Chúa Giêsu. Tình nghĩa ấy không phải chỉ là chung chung, mà là một tình nghĩa đề cao Chúa Giêsu. Việc làm của ông có thể đụng tự ái các thầy cả, các luật sĩ, các biệt phái. Việc làm của ông cũng có thể gây rắc rối cho ông do chính quyền thực dân đế quốc của ông. Thái độ của ông rõ ràng là do sức thúc đẩy của tình mến yêu chấp nhận liều lĩnh. Ông mến thương người đầy tớ bệnh hoạn của ông, và cũng rất mến thương Chúa Giêsu. Ðức ái nơi ông là rất mạnh.

Niềm cậy tin của ông không diễn tả bằng một công thức giáo lý, mà bằng một tâm tình xuất phát từ đáy lòng.

Niềm tin cậy của ông không phải là sự chấp nhận những giáo điều, mà là sự chấp nhận chính Ðấng Kitô, một vị đang sống như một Tình Yêu Cứu Ðộ, như một nhân chứng cho chân lý, bất chấp được khen hay bị chê.

Niềm cậy tin đầy khiêm tốn và chân tình ấy có thể ví như chiếc chìa khoá thiêng liêng có sức mở lòng Chúa và Người đã mở lòng ông để đón nhận ơn Chúa.

Người ngoại đạo này không những tin cậy vào bản thân Chúa Giêsu, mà còn đi xa hơn nữa. Ôngđã tin vào Lời Chúa Giêsu. Ông tin rằng Lời Chúa tự nó có sức mạnh. Ông nói: “Xin Ngài chỉ nói một lời, là đầy tớ của tôi sẽ được mạnh”. Với câu nói khiêm tốn đầy cậy tin đó, ông biểu lộ ý nghĩ của ông, đó là không cần Chúa cầm tay bệnh nhân, cũng không cần Chúa tới gần bệnh nhân, Chúa chỉ nói một lời, thì dù cách xa nghìn dặm, bệnh nhân cũng sẽ được khỏi bệnh. Có nghĩa là chỉ cần Chúa muốn là đủ rồi. Ý Chúa thế nào, thì mọi sự sẽ phải xảy ra như vậy.

Niềm tin của ông thực là sống động, rạng rỡ, kiên cường và sâu sắc. Niềm tin đã làm Chúa Giêsu ngạc nhiên vui sướng. Chúa đã tỏ cho ông biết Ngài là Ðấng cứu thế quyền năng giàu lòng thương xót. Và ông đã nhận ra Ngài. Quyền năng thương xót của Chúa đã đi vào tâm hồn ông. Ông được đổi mới, với những cái nhìn mới, với những hy vọng mới, với những lựa chọn mới.

Ðức tin của ông không phải chỉ là tin có Chúa, mà là tin vào Chúa. Tin vào Chúa là một sự xuất phát nội tâm. Ông từ bỏ mình, để đến với Chúa, để đi vào tình yêu Chúa, để đặt mình vào thánh ý Chúa.

Ðức tin như vậy chính là gặp gỡ Chúa, trong sự gặp gỡ ấy, ông thấy Chúa Giêsu là Tình Yêu Cứu Ðộ, còn mình là kẻ thấp hèn, bất xứng, cần được cứu độ. Sự gặp gỡ ấy luôn là sợi dây nối kết Chúa-Cứu-độ và người khát khao được cứu độ.

 Ðức tin Chúa muốn

Chúng ta đã thấy điều này là Chúa Giêsu không làm phép lạ ở Nagiarét, lý do vì các người Nagiarét không tin Ngài. Có nghĩa là không phải Ngài thiếu quyền năng và tình thương, nhưng quyền năng và tình thương của Ngài bị từ chối bởi sự thiếu lòng tin của dân Nagiarét.

Cũng vậy, Chúa sẽ không can thiệp vào đời ta, bao lâu ta không tin vào Ngài, không phó thác hoàn toàn nơi Ngài với ý thức bản thân ta yếu đuối. Thực sự, Chúa luôn đứng trước mỗi người chúng ta với tất cả quyền năng và tình yêu cứu độ của Ngài. Nhưng bao lần ta đã không nhìn Ngài, bao lần ta đã không đón nhận Ngài. Vì thế Ngài không đi vào lòng ta và đời ta.

Sự mà Chúa Giêsu tìm nơi ta, chính là sự khó nghèo và lòng phó thác. Ðó là mảnh đất Chúa muốn bước vào, để từ đó sẽ làm những phép lạ, các phép lạ do chính Ngài làm, nhưng Ngài lại muốn cho là cũng do lòng tin của con người. Chúa Giêsu đã nói với viên sĩ quan: “Ông hãy về, ông được như lòng ông tin” (Mt 8,13). Chúa cũng nói như thế với người đàn bà bị bệnh xuất huyết: “Ðức tin của bà đã chữa bà” (Mt 9,22). Chúa cũng nói như thế với người phong cùi: “Anh hãy đứng dậy và về đi, đức tin của anh đã cứu anh” (Lc 17,19). Chúa cũng nói như thế với người mù thành Giêricô: “Hãy nhìn đây, đức tin của anh đã cứu anh” (Lc 18,42). Chúa cũng đã nói như thế với người đàn bà xứ Canaan đến xin chữa con bà khỏi quỷ ám: “Bà có lòng tin rất mạnh, bà được như bà xin” (Mt 15,2-8).

Chúa đòi một lòng tin mạnh, dù hoàn cảnh xem như tuyệt vọng. Chúa nói với ông quản đốc hội đường, khi ông được tin con ông đã chết: “Ðừng sợ, hãy vững tin, con ông sẽ được sống” (Lc 8,50). Cũng thế, Chúa cũng đã nói với người cha đứa trẻ bị quỷ ám: “Sao ông nói nếu Thầy có thể. Cái gì cũng có thể đối với người tin” (Mc 9,22).

Tới đây chúng ta càng thấy rõ đối tượng của đức tin là gì. Ðức tin của ta, ít là bước đầu, không phải là hệ thống các chân lý tôn giáo, mà là quyền năng tình yêu cứu độ của Chúa hiện diện trong Lời Chúa, và trong các dấu chỉ và dụng cụ cứu rỗi được Chúa thiết lập cho Hội Thánh. Ðối tượng của đức tin là chính Ðức Kitô đã sống lại.

Với một đối tượng như thế, đức tin sẽ cứu ta khỏi chính cái tôi tội lỗi của ta. Cái then cài lòng ta sẽ được tháo gỡ. Lòng ta mở ra. Làn sóng tình yêu cứu độ của Chúa sẽ tràn vào hồn ta, để đổi mới ta. Lúc đó, đức tin của ta sẽ là một biến cố lạ lùng. Chúng ta sẽ trở nên bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt mọi người và trước chính lương tâm ta. Ðể ta như chìm đắm trong tình yêu đầy quyền năng cứu độ của Chúa. Và để Chúa thực hiện trong ta lời thánh Phalô đã nói: “Chúa toàn năng thực hiện uy quyền của Chúa nơi chúng ta và hằng ban cho chúng ta dư dật, quá sự chúng ta tin và quá sự chúng ta biết” (Eph 3,20). Ðúng như lời thiên thần đã nói với Ðức Mẹ: “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,37).

Một đức tin như vậy không phải chuyện dễ. Nó không phải là kết quả tất nhiên của những giờ học hỏi giáo lý. Kinh Thánh cho thấy để có một đức tin như vậy, người ta phải cầu xin ơn Chúa giúp đỡ. Các tông đồ xưa, mặc dầu sống cạnh Chúa, cũng đã có lần cảm thấy đức tin Chúa đòi là chuyện quá khó, nên đã cầu xin với Chúa rằng: “Lạy Thầy, xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5). Người cha đứa bé bị quỷ ám cũng cảm thấy khó khăn của đức tin thực là quá lớn, nên đã cầu xin với Chúa rằng: “Lạy Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi tin, vì tôi kém lòng tin” (Mc 9,23).

Một đức tin là gặp gỡ Chúa, với sự dứt lìa cái tôi tự mãn, với sự phó thác trọn vẹn nơi Chúa, với sự tin tưởng hoàn toàn ở Lời Chúa, với sự tùng phục tuyệt đối thánh ý Chúa, quả là một sự sống mới. Chính đức tin như vậy đã là một phép lạ, từ đó nảy sinh ra nhiều phép lạ khác. Một đức tin như vậy sẽ là nhân chứng đích thực của Chúa giữa thế gian này.

Ðức tin của ta và của giáo đoàn ta có như vậy không? Thực ra, ta đã nhận được đức tin, ngay khi ta lãnh bí tích Rửa tội. Nhưng đó mới là một hạt giống, một cái mầm non. Hạt giống ấy, mầm non ấy sẽ chỉ lớn lên, nếu được chăm sóc. Hãy dùng cách chăm sóc truyền thống rút từ Kinh Thánh, đó là chăm chỉ cầu nguyện, phụng vụ Lời Chúa, tham dự bí tích Thánh Thể, và chia sẻ đời sống huynh đệ của cộng đoàn Dân Chúa (x. Cv 6,4).

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã ban ơn đức tin cho con và cho giáo đoàn của con. Con nài xin Chúa luôn đổi mới đức tin của con và của giáo đoàn của con, để nhờ đức tin, chúng con được trở thành những phép lạ sống động, làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người.

Tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận Long Xuyên, năm 1992