Một đức tin được Chúa chỉ đường
Dửng dưng với Hội Thánh và bỏ Hội Thánh, đó là một hiện tượng hiện nay đang trở thành phong trào có tính cách quần chúng tại các nước Âu Châu. Henri Denis đã bàn về phong trào này trong cuốn Chrétiens sans Église (Desclée de Brouwer, Bellarmin, 1979). Ðọc cuốn sách dày 147 trang này, tôi thấy một phong trào như thế có thể thấm nhập vào Giáo Hội Việt Nam trong tương lai. Bởi vì nó có liên hệ mật thiết với các trào lưu văn minh đang đi vào Ðất Nước chúng ta. Thử coi đây. Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần khoa học đang dâng cao, càng ngày con người càng ưa chuộng những gì là chính xác, là kiểm chứng được, là có hệ thống. Ðang khi đó, có thể là người ta lại ít gặp được những tính cách khoa học trong các lời giảng dạy của các đấng bậc trong Hội Thánh của họ, nên dần dần họ coi thường và dửng dưng.
Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần thực dụng đang rất mạnh, càng ngày con người càng ưa chuộng những gì là thực tế, là thiết thực, là thực chất, có lợi cho cuộc sống. Ðang khi đó có thể là người ta lại ít gặp được thực chất trong con người các đấng bậc và trong các lời giảng dạy, các luật lệ tôn giáo. Nên dần dần họ xa cách.
Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần tự do dân chủ đang rất phổ biến, càng ngày con người càng ưa chuộng những gì là tôn trọng tư do, là khích lệ dân chủ. Ðang khi đó có thể là người ta lại ít gặp được những tính cách tự do dân chủ trong nếp sống đạo và nếp suy nghĩ của giáo đoàn mình, nên dần dần họ bỏ.
Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần hoài nghi đang len lỏi cùng khắp, càng ngày con người càng nghi ngờ những ai tự xưng mình là tốt. Ðang khi đó có thể là người ta thấy Hội Thánh tự xưng mình là tốt, nhưng vô số người trong Hội Thánh lại không tốt. Nên họ hoài nghi chính Hội Thánh.
Tôi nghĩ rằng các lý do người ta vịn vào để dửng dưng với Hội Thánh và bỏ Hội Thánh đều không đủ chính đáng. Tuy nhiên, khi thấy một người bỏ Hội Thánh bất cứ vì lý do nào và bất cứ ở đâu, đều làm tôi đau đớn xót xa. Phương chi thấy cả triệu người.
Nếu ta cho rằng trong giáo đoàn của ta chắc chắn sẽ không có ai ra đi như thế, ta cũng không nên vì thế mà tự phụ quá sớm. Thánh Phêrô cũng đã rất tự mãn với đức tin của mình, nhưng rồi ngài đã ngã một cách thê thảm.
Dù sao, cách tốt nhất nên làm để tránh cho giáo đoàn ta khỏi những bước ra đi sau này, là ngay bây giờ giáo đoàn ta và chính bản thân ta nên tích cực hơn trong việc chỉnh đốn lại nếp sống đức tin. Ðể gợi ý, tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ về dụ ngôn người Samaria tốt lành (x. Lc 10,25-37).
1. Luôn quy chiếu về Kinh Thánh như nền tảng tuyệt đối vững chắc
Phúc Âm viết: “Lúc đó, một luật sĩ đứng dậy, hỏi thử Chúa Giêsu rằng: Tôi phải làm gì để tôi được sống đời đời? Chúa đáp: Trong luật pháp đã chép thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?”. Chúa có ý nói về luật ghi trong Kinh Thánh. Luật sĩ đó cũng hiểu như vậy. Nên khi ông thưa lại đúng Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh, Chúa liền nói: “Ông trả lời đúng. Ông hãy làm như vậy thì ông sẽ được sống đời đời” (Lc 10,28).
Chi tiết trên đây dạy tôi rằng: trong mọi vấn đề có liên quan đến sự sống đời đời, Chúa muốn tôi tìm hiểu trong Kinh Thánh, lấy Lời Chúa làm đường đi.
Công Ðồng Vatican II, trong Hiến chế tín lý Dei Verbum, đã khẳng định vai trò ưu tiên của Lời Chúa. Hội Thánh được gọi là thánh chính vì biết vâng phục Lời Chúa và bảo vệ Lời Chúa. Chỉ khi biết tuân theo Lời Chúa, Hội Thánh mới phát triển đúng hướng, đúng đường.
Trong cuốn Dieu Cherche l'homme (Centurion, 1989), tác giả Armido Rizzi cho rằng: Hiến chế Dei Verbum, với chủ trương đặt Lời Chúa lên địa vị ưu tiên số một, đã là một cuộc cách mạng Copernic đối với nhiều nhà thần học và tu đức. Bởi vì không thiếu nhà thần học vì quá lo bênh vực các quyền lợi xã hội của Hội Thánh, nên đã cố tình dựa và các lý luận biện chứng hơn là dựa trên Lời Chúa. Quan niệm Hội Thánh như một Societas Perfecta là một ví dụ. Cũng không thiếu những nhà tu đức dựa vào triết học Platon hơn dựa vào Lời Chúa để vạch ra con đường Fuga Mundi như con đường dẫn tới sự trọn lành. Armido Rizzi viết: “Người ta nhận thấy là Kinh Thánh đã mất địa vị trung tâm trong đời sống Hội Thánh”.
Nhờ Hiến chế Dei Verbum, nhiều nơi trong Hội Thánh đã thức tỉnh, và đã duyệt xét lại nếp sống đức tin của mình. Còn chúng ta thì sao?
Khi quan sát các nếp sống đạo và các phản ứng tôn giáo tại nhiều nơi trong địa phương ta, tôi có cảm tưởng là rất nhiều nếp sống đạo và rất nhiều phản ứng tôn giáo đã quy chiếu vào tập tục, vào dư luận, vào những chọn lựa chính trị, và vào những lợi ích riêng tư, chứ không quy chiếu vào Kinh Thánh, hoặc nếu có đem Lời Chúa ra để biện minh, Lời Chúa lúc đó chỉ là một thứ dụng cụ đến sau, để hỗ trợ cho những gì thực chất là ngoài Lời Chúa và phản lại Lời Chúa. Tôi cũng có cảm tưởng là phần đông giáo dân ta hay suy nghĩ việc đạo theo cảm tính hơn là theo Lời Chúa.
Trong tương lai, một nếp sống đạo như thế, sẽ dễ rơi vào khủng hoảng. Lý do chính là vì thiếu sức mạnh Lời Chúa. Cai trị là thấy trước. Chúng ta có thấy trước nguy cơ đó không? Chúng ta có vâng lời Hiến chế Dei Verbum của Công Ðồng Vatican II mà duyệt xét lại các bài giảng và các bài giáo lý cũng như các thái độ sống của ta không? Hằng ngày Chúa cũng bảo ta như đã bảo ông luật sĩ: “Trong Kinh Thánh đã chép thế nào? Con đọc thấy gì trong đó?”. Ta sẽ trả lời thế nào?
2. Luôn quy chiếu về luật mến Chúa yêu người là luật căn bản
Phúc Âm viết: “Người luật sĩ thưa: Con phải kính mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn, và phải thương yêu anh em như thương yêu chính mình”. Chúa đáp: “Ông đã trả lời đúng. Ông hãy làm như vậy, thì ông sẽ được sống đời đời” (Lc 10,27-28).
Lời Chúa trên đây thực rõ ràng: “Ông hãy làm như vậy, thì ông sẽ được sống đời đời”. Lời Chúa phán trên đây như được rót vào tai tôi và được thấm sâu vào con người của tôi, khi tôi đọc cuốn Dieu, Coeur de L'homme, của chị Chiara Lubich (Nouvelle Cité, Paris, 1979). Trên suốt 159 trang, chị Chiara đã nói về luật mến Chúa yêu người qua các kinh nghiệm bản thân của chính chị. Chị viết: “Kinh nghiệm của chúng tôi dạy chúng tôi nhận thấy rằng: Tình yêu đối với anh em đến từ tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với Chúa được nẩy nở trong lòng chúng tôi khi chúng tôi yêu thương anh em” (trang 134). Chị cũng kể một kinh nghiệm nội tâm khác, mà chị đã cảm được về một bài học Chúa đã dạy thánh nữ Catarina đệ Siena xưa: “Cha muốn nói với con về một sai lầm, mà một số người mến Cha đã sa vào. Họ đặt mọi vui thích của họ vào sự đón nhận những an ủi nội tâm.Họ tưởng rằng nếu bỏ đi những ủi an đó thì sẽ làm mất lòng Cha. Không phải thế đâu, thực sự, họ sẽ làm mất lòng Cha, khi họ không cứu giúp anh chị em họ đang gặp cảnh thiếu thốn. Khi họ không cứu giúp anh chị em mình, họ sẽ giảm bớt đức ái của họ đối với tha nhân, và do đó, tình yêu thương Cha dành cho họ cũng giảm đi” (Catherine, Dialogue, Paris, 1976, trang 236-237).
Theo nhận xét của chị Chiara, thì “Một trong những nét khích lệ của dung mạo Hội Thánh hiện nay trong cơn khủng hoảng đang lay chuyển Hội Thánh, chính là sự hiểu biết có phần nào đổi mới nơi nhiều tín hữu về địa vị ưu tiên của tình mến Chúa yêu người. Sự đổi mới này được tỏ hiện trong khoa cắt nghĩa Tâm hồn, trong khoa thần học Luân lý và trong khoa thần học Tu đức. Sự đổi mới ấy đang là một thực tại sống động trong những dòng tu và phong trào đạo đức nào, trong đó người ta hoàn toàn hiểu rằng: Tình yêu Kitô hữu thực sự không thể có được, nếu không có thánh giá Chúa Giêsu, nhưng chính nhờ vậy, mà tại các nơi ấy lại thấy ngự trị một niềm vui làm cho người ta nghĩ tới thiên đàng” (trang 138).
Khi đọc những dòng trên, tôi nghĩ tới bộ mặt nhiều cộng đoàn đức tin tại Việt Nam. Tôi thấy nhiều bộ mặt đã đổi mới. Nhưng nhiều bộ mặt vẫn mãi như xưa với cái xưa của họ. Nghĩa là những cộng đoàn ấy vẫn là những cộng đoàn đức tin, với những nếp suy nghĩ và nếp sống kiên cố, nhưng chưa là những cộng đoàn đức ái. Bộ mặt đức tin thiếu nét đức ái có phải là bộ mặt đức tin hợp Lời Chúa không?
3. Luôn cố gắng thực hiện mến Chúa yêu người bằng những việc làm bác ái cụ thể đối với con người
Trong dụ ngôn, người luật sĩ lại hỏi Chúa: “Ai là người anh em tôi?”. Chúa Giêsu nói: “Một người đi từ Giêrusalem đến Giêricô, trên đường anh rơi vào bọn cướp. Chúng trấn lột và đánh đập anh, rồi bỏ đi, để anh nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ, một thầy cả đi tới, thấy anh ta, liền qua bờ đường bên kia để tiếp tục đi. Cũng vậy, một thầy Lêvi tới, cũng thấy anh ta, và cũng rẽ qua bờ đường bên kia, để tiếp tục đi.
Nhưng một người Samaria đi tới, thấy anh ta, liền động lòng thương. Ông lại gần, băng bó vết thương, lấy dầu và rượu đổ vào vết thương, rồi nâng anh ta lên lưng ngựa, chở anh ta đến một quán trọ và chăm sóc anh. Hôm sau, ông trở lại, trả chủ quán hai đồng và nói: “Xin làm ơn chăm sóc người này, tất cả phí tổn tôi sẽ trả cho ông lúc tôi trở về” (Lc 10,30-35).
Rồi Chúa hỏi ông luật sĩ: “Trong ba người đó, theo ý ông, ai là người có tình anh em đối với kẻ bị cướp trấn lột?”. Luật sĩ đáp: “Chính là người đã thương giúp kẻ bị nạn”. Chúa tiếp: “Ông hãy về và làm như vậy” (Lc 10,36-37).
Chúng ta thấy trong phần đối thoại trước (x. Lc 10,25-28) Chúa và nhà luật sĩ chỉ nói chuyện với nhau về lý thuyết. “Luật viết gì? Ðọc thấy gì?”. Nội dung đối thoại là những quan niệm, là một mảng lý thuyết. Khi nói về yêu thương anh em, thì anh em là một ý tưởng suông, chỉ về một người chung chung, trống vậy. Không xác định là ai cả. Theo nhà luật sĩ, thì cứ nói chung chung trên lý thuyết như vậy, là chắc ăn rồi.
Nhưng khi thấy người luật sĩ ấy xem ra muốn lý sự trên lý thuyết, Chúa liền kéo ông ta vào cụ thể. Con người cụ thể là một nạn nhân nửa sống nửa chết nằm ở vệ đường. Các việc cụ thể là rửa vết thương, băng bó vết thương, đổ rượu và dầu vào vết thương, nâng nạn nhân lên ngựa, đưa tới nhà trọ, chăm sóc, trả tiền trọ, hứa sẽ chịu hết phí tổn. Qua sự nêu lên một chuỗi các việc làm cụ thể đó, Chúa muốn người luật sĩ hãy phiên dịch cái lý thuyết mến Chúa yêu người ra ngôn ngữ cụ thể, đó là việc bác ái thực sự dành cho những người khổ đau thiếu thốn. Thành ra ban đầu người luật sĩ đã đặt câu hỏi với Chúa: Tôi phải làm gì để tôi được sống đời đời, thì bây giờ ông được mời trả lời cho các thực tế đặt ra cho ông: Tôi phải làm gì để cứu giúp người này người nọ. Xem ra Chúa muốn ông hãy bắt tay vào việc làm hơn là cứ xoay quanh chủ trương đường lối trên lý thuyết.
4. Những việc bác ái ưu tiên
Nói đến các việc bác ái, tôi thấy thực mênh mông. Mỗi người chúng ta, ai làm được gì, thì cố gắng làm. Ở đây, tôi xin nêu lên mấy việc, mà tôi nghĩ là nên đặt vào hàng ưu tiên.
Việc thứ nhất là hãy giáo dục những người của cộng đoàn chúng ta thành những người biết chấp nhận và kính trọng kẻ khác với tinh thần hoà giải và hoà hợp Phúc Âm. Theo tôi, thì vị thầy cả và người Lêvi trong dụ ngôn không phải là loại người không có lòng mến Chúa yêu người, nhưng họ thuộc loại người chỉ chấp nhận những ai hợp với họ, thuộc về gốc gác của họ, có liên hệ sắc tộc tôn giáo và địa phương với họ. Ðức tin của họ nặng tính cách xa tránh. Ðức ái của họ nặng khuynh hướng loại trừ. Họ chủ trương xa tránh loại người thế này, loại trừ loại người thế kia. Với những chủ trương như thế, lòng đạo của họ trở nên hẹp hòi, dần dần tạo ra một bầu khí tôn giáo sặc mùi nghi kỵ, hận thù, chia rẽ và mặc cảm xung đột. Rõ ràng một bầu khí tôn giáo như vậy là không hợp với luật mến Chúa yêu người. Dụ ngôn hôm nay chứng tỏ điều đó. Thế nhưng, một bầu khí như vậy vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam. Vẫn còn những chuyện chống đối nhau chỉ vì lý do Nam Bắc, vì gốc này vì khuynh hướng nọ. Vẫn còn những chuyện không chấp nhận nhau chỉ vì lý do tranh giành ảnh hưởng uy tín. Thành kiến còn nhiều. Kỳ thị còn nhiều. Ích kỷ còn nhiều. Tự ái còn nhiều. Tôi thấy những chuyện hẹp hòi như thế đã gây hại lớn cho bao linh hồn và cho Ðất Nước.
Một trật tự mới đang được thiết lập trên thế giới và tại Việt Nam. Nếu chúng ta không thức tỉnh, nắm bắt tình hình và cởi mở theo tinh thần hoà hợp hoà giải Phúc Âm, thì chúng ta sống sai Lời Chúa, làm sai những lời Ðức Thánh Cha đã nhắn nhủ trong bài diễn văn đọc trước các Ðức Giám Mục Việt Nam cuối năm 1990. Hậu quả sẽ rất bất lợi cho Hội Thánh.
Việc thứ hai là hãy đào tạo những người của cộng đoàn chúng ta thành những người có thiện chí phục vụ, có khả năng phục vụ và biết cách phục vụ. Người Samaria trong dụ ngôn, sở dĩ được nêu gương, chính vì ông có ba điều kiện đó. Phục vụ là tiêu chuẩn xã hội được đề cao khắp nơi trên thế giới hôm nay. Người ta dựa theo tiêu chuẩn phục vụ mà đánh giá một tôn giáo, một thể chế chính trị, một con người. Có thiện chí phục vụ không? Có thiện chí, nhưng có khả năng phục vụ không? Có thiện chí và khả năng, nhưng có biết cách phục vụ không? Phục vụ là đáp ứng một nhu cầu cụ thể đúng lúc đúng nơi. Nhìn Hội Thánh Việt Nam như một nhân tố phục vụ Ðất Nước trong một tương lai cởi mở, tôi tự hỏi: Sẽ có bao nhiêu người công giáo đủ trình độ khả năng để hoạt động trong các trường Trung học và Ðại học, trong Quốc Hội, trong các cơ quan hành pháp, kinh tế, xã hội, trong giới nhà văn nhà báo. Thời nay, muốn phục vụ hữu hiệu, thì phải có khả năng chuyên môn và phải có lương tâm tốt.
Nhưng thực tế thì sao? Nhìn vào việc học và đào tạo nhân sự trong các họ đạo hiện nay, chúng ta có thể đoán được khả năng phục vụ của Hội Thánh Việt Nam trong tương lai Tổ Quốc. Nếu tương lai bắt đầu từ hôm qua và hôm nay, thì tôi không dám lạc quan. Nạn nhân của dụ ngôn vẫn vô số kể. Nhưng những người có thiện chí phục vụ, có khả năng phục vụ và biết cách phục vụ như người Samaria của dụ ngôn sẽ không nhiều.
Tối thứ năm, 9/01/1992, vừa qua, đài truyền hình Cần Thơ chiếu một chương trình phóng sự tựa đề: “Vươn lên từ nỗi bất hạnh”. Nội dung tường thuật những thành công của các trẻ em mồ côi tàn tật, nhờ ý chí phấn đấu và sự giúp đỡ của những người hảo tâm. Khi theo dõi chương trình ấy, tôi đã nghĩ tới các giáo đoàn chúng ta. Với con số 71 Linh mục được thụ phong sau giải phóng, nhất là với niềm tin vào Ðức Kitô, chúng ta không sống trong nỗi bất hạnh, mà là sống trong một mùa hồng ân Thiên Chúa. Từ mùa hồng ân ấy, chúng ta chỉ có một chọn lựa, đó là phải vươn lên. Nếu không vươn lên, thì đó là nỗi bất hạnh lớn, ta sẽ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa.
Xin Ðức Mẹ, Thánh Cả Giuse, các Thánh Tử Ðạo Việt Nam giúp chúng ta biết làm cho giáo đoàn của ta vươn lên, để góp phần phát triển Ðất Nước, làm vinh danh Chúa, sinh ích cho phần rỗi các linh hồn.
Tuần tĩnh tâm Linh mục giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992