1996
Vài thông tin về việc học hành
Việc học hành của con em vốn là vấn đề gây nhiều suy nghĩ cho các phụ huynh và mục vụ giáo xứ. Tháng Chín, dịp tựu trường, vấn đề này càng lan rộng và tăng độ nóng.
Ðể giúp cho các suy nghĩ về việc học hành của con em đưa tới những hành động thích hợp, hôm nay tôi xin gửi đây một số thông tin rút từ báo chí.
1- Những mừng lo
a) Cùng với những thành tựu bước đầu hết sức to lớn, có ý nghĩa sống còn của công cuộc đổi mới trong mười năm qua, sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Ðất Nước ta cũng có những chuyển biến đáng mừng không thể phủ nhận được, tuy rằng còn không ít yếu kém. ..
... Tuy nhiên sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước những vấn đề gây cấn, nhiều thách thức, nhiều khó khăn, đồng thời cũng tồn tại nhiều yếu kém:
1/- Tuy nước ta có tỷ lệ người biết chữ thuộc loại cao so với cộng đồng quốc tế nhưng mặt bằng dân trí chung lại thấp, tỷ lệ người được đào tạo nghề nghiệp rất thấp. Ðiều này sẽ là trở ngại lớn cho việc tăng tốc phát triển. Nguy cơ tụt hậu nguy hiểm nhất là tụt hậu về giáo dục - đào tạo. Biện pháp chống tụt hậu đầu tiên và hữu hiệu nhất của toàn bộ nền kinh tế xã hội là chống tụt hậu về giáo dục - đào tạo.
2/- Áp lực đòi hỏi phát triển quy mô và chất lượng giáo dục - đào tạo ngày càng tăng, đòi hỏi phải tăng nhanh tốc độ xây dựng trường sở, tăng trang thiết bị, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ giáo viên, phải tiến tới học đủ môn, làm đủ thí nghiệm, học ngày 2 buổi... mà năng lực hiện có của hệ thống giáo dục - đào tạo rất hạn chế, ngân sách ta còn nghèo, dân ta có thu nhập thấp... không đủ sức thoả mãn kịp thời các yêu cầu đó.
3/- Bên cạnh những mặt tích cực mà cơ chế thị trường đem lại, cũng có những tác động tiêu cực, những vấn đề mới nảy sinh hết sức gay gắt. Các thang giá trị bị xáo trộn, quan niệm và tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội có phần suy suyển. Ý thức trách nhiệm với Ðất Nước, với cộng đồng bị giảm sút ở nhiều người... Tất cả những cái đó ảnh hưởng đến thái độ dạy và học. Người ta chọn nghề phần nhiều theo khả năng kiếm thu nhập cao. Một số ngành không có người học hoặc không có người giỏi theo học, kể cả những người thực sự có năng khiếu.
4/- Người có học vẫn khó tìm việc làm, càng khó tìm việc làm có đồng lương cân xứng. Nền học vấn của xã hội chỉ có thể phát triển khi giá trị của học vấn thực sự được coi trọng. Mặt khác, nhiều khi kiến thức và năng lực được đào tạo lại không phù hợp với yêu cầu của sản xuất và đời sống.
5/- Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn, kéo theo sự phân hoá về điều kiện học hành cũng ngày càng lớn. Người nghèo, ngoài khả năng được hưởng nền giáo dục tối thiểu ở trình độ phổ cập, rất khó khăn về mặt kinh tế để học đến nơi đến chốn, tuy Nhà nước có chính sách học bổng, có trường nội trú, có tín dụng giáo dục... Phần lớn nông dân đều khó khăn, mà nông dân lại chiếm đến 78% dân số. Ngân sách khó mà bao cấp hết được.
6/- Sự yếu kém của bản thân hệ thống quản lý giáo dục cũng là một nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh hoặc không hạn chế được những biểu hiện tiêu cực, yếu kém trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
7/- Sau khi Nghị quyết Ðại hội VII và nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII về giáo dục - đào tạo, nhận thức của các cấp và trong xã hội có sự chuyển biến quan trọng, tuy vậy vẫn “chưa thực sự quán triệt tư tưởng xem giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
(Bài “Một số vấn đề về Giáo dục - Ðào tạo”, tác giả Trần Hồng Quân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Ðào tạo, tạp chí Thế Giới Mới, số 192, ra ngày 8/7/1996, trang 4-5)
b) “10 dự án lớn của ngành giáo dục - đào tạo với kinh phí 4.627 tỉ đồng đã và sẽ được triển khai từ nay đến năm 2000. Các dự án bao gồm 6 chương trình nâng cấp giáo dục tiểu học (1.090 tỉ đồng), chương trình nâng cấp giáo dục trung học (520 tỉ đồng), chương trình hỗ trợ giáo dục dân tộc (500 tỉ đồng), chương trình xây dựng trường học vùng bão (840 tỉ đồng), chương trình nâng cấp giáo dục dạy nghề (200 tỉ đồng), chương trình nâng cấp cơ sở vật chất các trường Ðại học (400 tỉ đồng), dự án Ðại học Quốc gia Hà Nội giai đoạn 1 (132 tỉ đồng), Ðại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (450 tỉ đồng), Ðại học Cần Thơ (260 tỉ đồng) và nâng cấp Trường Hàng không Việt Nam (235 tỉ đồng)”.
("10 dự án lớn của ngành giáo dục - đào tạo”, tạp chí Thế Giới Mới, số 192, ra ngày 8/7/1996, trang 77)
2- Những thực tế đáng suy nghĩ
a/- “Theo số liệu từ Phòng Tổ chức của Sở Giáo dục - Ðào tạo An Giang, khoảng tháng 7-95 đến 30-5-96 tổng số giáo viên nghỉ và bỏ dạy là 552, trong đó 153 người là nhân viên, 265 người là giáo viên tiểu học, 28 là cô giáo mầm non, 74 giáo viên cấp II và 32 là giáo viên cấp III. Xét về tính chất, có 85 trường hợp đúng tuổi nghỉ hưu, 102 trường hợp do sức khoẻ đời sống khó khăn, 110 trường hợp thôi hợp đồng, 160 trường hợp tự ý bỏ việc, 80 trường hợp xoá hợp đồng, và 15 trường hợp do xuất cảnh. So với năm học 94-95 số giáo viên, nhân viên nghỉ và bỏ việc năm học 95-96 tăng gần gấp đôi (năm 94-95 có 267 trường hợp thôi và bỏ việc). Vì sao lại có quá nhiều giáo viên và nhân viên ngành Giáo dục bỏ việc không tiếp tục sự nghiệp mà xã hội xem là cao quý? Qua tìm hiểu, nhận thấy có 2 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghỉ và bỏ dạy: Ðó là do sức khoẻ, kinh tế, tâm huyết...”
(Bài “Khi người kỹ sư tâm hồn bỏ việc”, tác giả Nguyễn Thuỷ, báo An Giang, số 1240, ra ngày 29/6/96, trang 5).
b/- “Theo thống kê của Sở Giáo dục - Ðào tạo, hiện toàn tỉnh có 567 giáo viên hệ mầm non, 12.682 giáo viên phổ thông các cấp. Thế nhưng trên thực tế tình trạng thiếu giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học và giáo viên cấp II đang ở mức độ báo động. Nếu tính theo chỉ số một giáo viên/lớp theo quy định của Bộ GD-ÐT, thì toàn tỉnh thiếu đến 2.048 giáo viên tiểu học, 465 giáo viên cấp II, 72 giáo viên cấp III, tập trung chủ yếu ở các bộ môn ngoại ngữ, nhạc, hoạ, thể dục (hệ trung học).
Theo nguồn tin từ Sở GD-ÐT An Giang, nguyên nhân của “cơn sốt” giáo viên chủ yếu là do ngành sư phạm không đạt chỉ tiêu tuyển sinh, mặt khác số giáo viên ra trường không bù đắp nổi so với số bỏ nhiệm sở ngày một tăng (năm học 95-96 là 435 trường hợp; 94-95 là 267 trường hợp).
Nếu so sánh với nhu cầu nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên thời kỳ sau năm 2000 (giáo viên tiểu học đạt trình độ Cao đẳng, giáo viên trung học đạt Ðại học, trong đó có 5% đến 10% là thạc sĩ) thì thực trạng giáo viên ở An Giang hết sức bất cập.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng học sinh (nhất là bậc trung học) dự kiến tăng đến năm 2000 từ 2 đến 3 lần khiến tình hình thiếu giáo viên càng trở nên trầm trọng. Sở GD-ÐT An Giang đang lập nhiều đề án khả thi trình lên Tỉnh uỷ, UBND tỉnh nhằm khắc phục tình trạng này.
(Bài “Thiếu 2585 giáo viên các cấp”, tác giả Lục Tùng, báo An Giang, số 1241, ra ngày 3/7/1996, trang 12).
c/- "...Sau khi Bộ Giáo dục và Ðào tạo quyết định cho phép hạ điểm chuẩn từ 1 đến 3 điểm tuỳ theo kết quả thi ở mỗi tỉnh, các báo đồng loạt phản ứng mạnh mẽ. Tất cả đều không đồng tình với quyết định ấy. Báo Tuổi Trẻ ra ngày 29/6/1996 nêu cái tít lớn thật chua chát: “Bằng tú tài: Ai xin thì cho”. Ôi! “Bằng cho” thì còn giá trị gì, nhất là bằng ấy lại là bằng tú tài...”
"...Nghe nói thành phố Hồ Chí Minh không hạ điểm chuẩn nên nảy sinh cái tên “Tú tài tỉnh” để phân biệt với “Tú tài thành phố”, nghĩ thật buồn cười. Theo các báo thì tú tài Long An 19 điểm, Sóc Trăng 18 điểm, Kiên Giang, Cần Thơ 17 điểm... riêng Vĩnh Long lại tròn trịa 20 điểm nên mới có bài phàn nàn của một nhà giáo trên báo Thanh Niên rằng tại sao lại có sự bất công ấy giữa Cần Thơ và Vĩnh Long. Thôi thì đủ thứ chuyện kêu ca, than phiền, trách móc, hẳn lần này các vị lãnh đạo ngành giáo dục không khỏi nhức đầu...”
"...Những lý do mà lãnh đạo ngành giáo dục và giám đốc sở giáo dục các tỉnh đưa ra để biện minh cho việc hạ điểm chuẩn là:
- Tránh đột biến: các năm trước đỗ 90%, thậm chí 100%, nay có tỉnh tụt xuống còn 60%-65% là một sự đột biến gây xúc động tâm lý lớn cần phải tránh.
- Không an tâm: học sinh đã phải học 12 năm để đi thi mà hỏng thì áy náy; các năm trước đỗ nhiều, năm nay đỗ ít nên lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo không an tâm.
- Cần nhân lực cho tỉnh (nghĩa là cần nhiều người có bằng tú tài cho dù bằng ấy không đánh giá đúng trình độ của người cầm nó).
- Tránh lưu ban quá nhiều ở lớp 12, gây hậu quả thiếu trường lớp, thiếu giáo viên...”
(Bài “Mảnh bằng “hạ chuẩn”, tác giả Huyền Viêm, báo SGGP, số 6849, ra ngày 4/8/1996, trang 4).
d/- “Hiện nay cả nước có khoảng 8,5 triệu người mù chữ, trong đó đồng bằng sông Cửu Long chiếm 33%, vùng núi phía Bắc chiếm 38%. Hằng năm có khoảng 2,5 - 3 triệu trẻ em không đến trường. Cả nước thiếu 6 vạn giáo viên tiểu học, tập trung ở các vùng sâu, biên giới, hải đảo...”
(Bài “Chống mù chữ...”, báo Thanh Niên, số 127 (915), ra ngày 10/8/1996, trang 10).
e/- “Tại hội nghị toàn quốc tổng kết năm học 1995-1996 ở Sầm Sơn (Thanh Hoá) mới đây, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nói: “Nếu từ trung ương đến địa phương mà có thêm công trình nào thì điều đó đáng hoan nghênh. Nhưng, phải thấy rằng giáo dục-đào tạo là công trình của những công trình”! Ðó là một cách nói khác để nhấn mạnh giáo dục-đào tạo là nền tảng, bệ phóng cho sự tăng trưởng của một quốc gia...”
"... Ở Lai Châu vẫn còn có hơn 500 bản làng hoàn toàn không có trường học. Tại đây người ta cũng không còn lạ với chuẩn đào tạo của những người thầy: 5+3 rồi 5+1, nhưng vẫn cứ thiếu. Thậm chí để có giáo viên, ngành phải lấy cả những học sinh có trình độ lớp ...1 rồi nuôi ăn học đến lớp 5, sau đó cho học thêm một năm nữa để làm... thầy (!)...”
"... Công trình của những công trình! Nhưng, năm này sang năm nọ người ta cứ phải loay hoay chống đỡ với những công trình... ca ba, rồi ca bốn mà vẫn không hết: năm học mới còn tới 14.000 lớp học ca ba và hàng vạn phòng học bằng tre lá; lớp học không cửa nẻo, không bàn ghế và cả nhà vệ sinh cũng không có nốt (báo cáo của Bộ GD-ÐT)! Ca ba đã sinh nở đến cả những thành phố được tiếng có nhiều nhà hàng, khách sạn nhất như Hà Nội, TP. HCM... Trong khi đó, cả nước chỉ có 8,2% số trường có phòng thí nghiệm. Tại sao? Dễ hiểu, khi mà vốn xây dựng cơ bản dành cho giáo dục chỉ đạt từ 2 - 3%, chưa có năm nào đạt đến cái ngưỡng 5% như chỉ thị 248/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Và theo báo cáo tổng kết năm học 1995-1996 của Bộ GD-ÐT, so với năm học trước kinh phí tăng 6% trên lý thuyết, trong khi kinh phí thực chi cho giáo dục lại giảm đến. .. 20%!
Cần phải làm gì cho một “công trình của mọi công trình”? ”.
(Bài “Công trình của những công trình”, tác giả Hà Thạch Hãn, báo Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 29-96 (662), ra ngày 28/7/1996, trang 14)
3- Những hậu quả cần thấy
a/- "...Không có ví dụ nào rõ ràng hơn về giá trị của giáo dục khi so sánh giữa Pakistan và Hàn Quốc. Cả hai nước đều có cùng một mức thu nhập vào năm 1960 nhưng Pakistan có tỉ lệ đi học cấp cơ sở là 30%, trong khi Hàn Quốc là 94%. Ðó là lý do vì sao tổng sản phẩm quốc nội GDP tính theo bình quân đầu người của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với Pakistan 25 năm sau đó!...”
"... Lời cảnh tỉnh thật rõ ràng: không một nước nào có thể chuyển đổi cơ cấu kinh tế nếu không tăng mức giáo dục cơ bản. Tăng trưởng kinh tế chỉ là phương tiện, vì mục tiêu là lợi ích con người. Chính con người mới đáng coi trọng chứ không phải là tổng sản phẩm quốc gia. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có hiện tượng “có sự tăng trưởng nhưng không tạo ra việc làm” ở các nước giàu có”.
(Bài “Vòng đạo lý”, tác giả Yên Ba, báo Tuổi Trẻ, số 85/96 (2527), ra ngày 23/7/1996, trang 12).
b/- "... Kinh nghiệm cho thấy ở những nước có nền văn hoá dày dặn, có truyền thống ham học và coi trọng văn minh tinh thần như các nước Á Ðông (Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po) thì tiếp thu và biến đổi văn hoá hiện đại từ bên ngoài thường có hiệu quả...”
"...Văn hoá chỉ trở thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi các yếu tố cấu thành của nó như tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, thái độ và hành vi ứng xử thấm vào tất cả các lãnh vực hoạt động sáng tạo của con người để trở thành văn hoá trong sản xuất, văn hoá trong kinh doanh, văn hoá trong quản lý, văn hoá trong lối sống, trong giao tiếp, văn hoá trong sinh hoạt gia đình và ngoài xã hội, văn hoá trong giao lưu và hợp tác quốc tế...”
"...Văn hoá nhờ thế thấm thấu vào mọi mao mạch của đời sống con người, và do đó vun trồng, tôn vinh con người như là mục tiêu cao nhất của phát triển kinh tế - xã hội. Và cũng nhờ đó từng bước thực hiện được nguyên tắc và cơ chế phát triển kinh tế - xã hội bằng văn hoá, và thông qua văn hoá...”
(Bài “Ðể văn hoá là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, báo Nhân Dân, số 32 (392), ra ngày 4/8/1996, trang 12).
c/- "... Nhưng điều khiến cho tôi quan tâm chính là làm thế nào để cho Xingapo, từ một hòn đảo không hề có tài nguyên, trơ trụi, cách đây hai, ba chục năm vẫn còn là những dãy nhà ổ chuột, người dân thản nhiên đi vệ sinh ở gốc cây trên đường phố, ngày nay trở thành một nền kinh tế hùng mạnh trong khu vực, với một xã hội có kỷ cương và trật tự? Khi tôi đặt câu hỏi này với ông Tan Seng Chye, giám đốc Ban hợp tác kỹ thuật thuộc Bộ Ngoại giao Xingapo, thì câu trả lời của ông Tan là: giáo dục! Ðó chính là cái cầu nối quan trọng bậc nhất để nối giữa cái “không có gì” với “cái gì cũng có”! ...”
(Bài “Không có cái gì” - và giáo dục: “cái gì cũng có”, tác giả Yên Ba, báo Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 28-96 (661), ra ngày 21/7/1996, trang 10).
4- Những địa chỉ hướng về
a/- "... Muốn công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá nông thôn nói riêng thành công, phải làm thế nào để phát huy nguồn lực con người Việt Nam, trong và ngoài nước. Chúng tôi nghĩ, đã đến lúc Ðảng và Nhà nước cần làm một cuộc đổi mới thứ hai - đổi mới trong cơ chế quản lý con người, như đã đổi mới trong cơ chế sản xuất nông nghiệp làm từ mấy năm đầu thập kỷ 80. Trong khi ngân sách nhà nước còn giới hạn, cuộc “đổi mới thứ hai” này cần bắt đầu ngay từ cái gốc - các lớp mẫu giáo, tiểu học và trung học trên toàn quốc. Mạnh dạn đầu tư vốn trong nước và mượn vốn quốc tế để làm công cuộc “đổi mới thứ hai” này.
Lao động Việt Nam cũng thuộc loại tài ba trên thế giới. Nhưng chúng ta chưa biến tiềm năng thành hiện thực được, vì tuy nói “khoa học và kỹ thuật là then chốt” nhưng trong thực hành ta chưa tạo điều kiện cho khoa học kỹ thuật phát huy.
Cách nay khoảng một thế kỷ, vua Nhật Bản và vua Việt Nam đều có gửi sứ giả đi các nước phương Tây để xem triển lãm khoa học kỹ thuật. Khi sứ thần về nước tâu lại, vua Nhật Bản đã tạo điều kiện cho người Nhật đi khắp thế giới học hỏi khoa học kỹ thuật về làm giàu cho nước Nhật, còn vua Việt Nam thời Tự Ðức đã buộc tội “khi quân” ông Nguyễn Trường Tộ. Ðó là bài học cho chúng ta ngày nay.
(Bài “Cùng suy nghĩ với nông dân”, tác giả GSTS Võ Tòng Xuân, báo Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 29-96 (663), ra ngày 28/7/1996, trang 3).
b/- "... Việc xem nhẹ chức năng giáo dục truyền thống từ mỗi gia đình trong bối cảnh những mối quan hệ rường cột trong gia đình và xã hội nhiều nơi đang bị lỏng lẻo, rạn nứt, bị đặt dưới nhãn quan của kinh tế thị trường cũng là điều hết sức lo âu...”
(Bài “Tự hào dân tộc, nhân tố đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc”, tác giả Trần Bạch Tuyết, báo SGGP, số 6849, ra ngày 4/8/1996, trang 2).
c/- "... Tương lai của Ðất Nước trước hết phụ thuộc vào trình độ dân trí, vào nền học vấn, vào chất lượng lao động của dân cư chứ không phải vào của cải đang có. Một dân tộc giỏi dù nghèo rồi sẽ giàu và văn minh, một dân tộc dốt nát dù có giàu cũng sẽ thành nghèo và lạc hậu. Việc học hành là việc lớn của tương lai, từng gia đình, từng dòng họ cũng như cả Dân Tộc. Ngẫm lại ai cũng thấy. Nhưng thường ngày rất dễ quên, vì đó là việc tuy trọng đại nhưng không nóng bỏng. Khi xưa, triều đại nào coi trọng sự học, trọng dụng người tài, cũng điều thịnh trị cả. Thời đại ngày nay với chủ nghĩa xã hội nhất định phải hơn thế”.
(Bài “Một số vấn đề về Giáo dục - Ðào tạo”, tác giả Trần Hồng Quân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Ðào tạo, tạp chí Thế Giới Mới, số 192, ra ngày 8/7/1996, trang 7).
Ðể Kết
Những thông tin trên đây chỉ là một mảng nhỏ của tổng thể tình hình học hành của con em chúng ta. Thiết tưởng mảng nhỏ này cũng gợi được trong chúng ta nhiều suy nghĩ có trách nhiệm. Ðúng là vấn đề không đơn giản, việc giải quyết vấn đề càng không đơn giản.
Tuy gặp khó khăn, nhiều nơi, mục vụ giáo xứ đã có nhiều sáng kiến góp phần đáng khen vào việc giải quyết vấn đề, không phải chỉ bằng những khích lệ đi học, mà còn bằng những việc tích cực khác, như mở phòng đọc sách báo, lớp dạy nhạc, lớp dạy nghề, lớp học tình thương, nâng đỡ các học sinh nghèo, xây dựng lưu xá cho các học sinh từ xa tới, giúp đỡ các thầy cô túng thiếu, quan tâm đến ngày nhà giáo, ngày khai trường, ngày phát phần thưởng, ngày bế giảng, vv... Tuần báo “Công giáo và Dân tộc” thường đăng nhiều tin tức của các giáo xứ về những hoạt động trên.
Việc giáo dục - đào tạo cần nhắm vào việc phát triển con người toàn diện một cách cân đối. Sẽ là một thứ phát triển què quặt, nếu mặt kinh tế, kinh doanh thì tiến, còn mặt văn hoá, đạo đức, nghiên cứu khoa học và bản sắc dân tộc thì lùi.
Rất mong những người làm mục vụ suy nghĩ và góp phần giải quyết vấn đề trong phạm vi trách nhiệm của mình một cách khôn ngoan và đạo đức.
Tưởng cũng nên nhớ rằng: Hiện nay tinh thần liên đới xã hội là một yếu tố quan trọng không được phép tách rời khỏi tinh thần phục vụ Lời Chúa và phục vụ bí tích, trong việc làm chứng cho đức tin và truyền bá đức tin.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 9/1996