ÐẦY TỚ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN
Quem constituit dominus
super familiam suam
“Ðây là đầy tớ trung tín và khôn ngoan Chúa đã đặt lên coi sóc gia đình Chúa”. Lời Kinh Thánh trên đây được Giáo Hội dùng làm ca nhập lễ kính thánh Giuse 19/3. Chúng ta muốn trung tín và khôn ngoan theo gương thánh Giuse. Ðang khi đó Chúa đã đặt ta lên coi sóc gia đình Chúa, Chúa đã gọi ta, Chúa đã chọn ta. Sự ta được Chúa đặt lên coi sóc gia đình Chúa là một sự kiện Giáo Hội và cũng là một sự kiện xã hội. Nhiều người đã được trao cho ta chăm sóc. Ta được ban quyền cai quản đoàn chiên. Nhìn vào quyền chức đó, ta không khỏi có nhiều tâm tư. Một số tâm tư đáng nói ra.
Tâm tư đầu tiên đáng nói là Tạ ơn và sám hối
Ở đây xin trích những dòng Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Con tự hỏi tại sao Chúa đã gọi con. Tại sao Chúa đã chọn con? Con là đứa quá vụng về, quá ương ngạnh, quá nghèo nàn về trí khôn và tâm tình. Con hiểu rồi. Chúa đã chọn những người yếu đuối trong thế gian để không một người nào có thể khoe mình trước mặt Chúa được” (1 Cr 1,17-18). Việc Chúa chọn con biểu lộ hai sự này: sự hèn mọn của con và sự tự do nhân từ toàn năng của Chúa. Sự chọn lựa đó không ngừng lại trước những bất trung của con, trước sự khốn nạn của con, trước khả năng của con có thể phản bội Chúa. Lạy Chúa, lạy Chúa, con dám nói. .. trong nỗi vui mừng cực độ, con dám nói về Chúa rằng: nếu Chúa không phải là Thiên Chúa thì thực Chúa đã bất công, vì chúng con đã phạm tội nặng nề, mà Chúa thì hoà dịu, chúng con đã chọc tức Chúa mà Chúa thì thương xót chúng con (PL. 40,1150).
Bây giờ xuất hiện trong trí nhớ con lịch sử khốn nạn đời con, một đàng thêu dệt bằng những ân huệ phi thường, phát xuất từ lòng nhân từ khôn tả của Chúa, mà con hy vọng một ngày kia sẽ được xem thấy và sẽ ca tụng muôn đời, một đàng bị tiêm nhiễm bởi những hành động vô phúc, không nên nhắc tới làm gì, vì chúng quá khiếm khuyết, bất toàn, dốt nát, dại dột. Lạy Chúa, con có điên rồ, hẳn Chúa biết đó (x. Cv 68, 69, 6). Ðời sống bần tiện, lao đao, bủn xỉn, hẹp hòi, rất cần phải nhẫn nại phải tu bổ, phải được vô cùng thương xót. Con luôn luôn coi cuộc đời của thánh Augutinh như một tổng hợp tuyệt vời: sự khốn nạn và lòng từ bi: sự khốn nạn của con và lòng từ bi của Chúa. Chớ gì, ít ra bây giờ, con có thể tôn vinh Chúa là Thiên Chúa tốt lành vô cùng bằng cách kêu cầu chấp nhận và tán tụng lòng từ bi dịu hiền của Chúa...” (Gẫm về sự chết, Osservatore Romano 34, 21/8/1979).
Ngoài ra trong chúc thư, Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã có đoạn cảm ơn Hội Thánh, gia đình, các Giám Mục, ân nhân, bạn bè và mọi người có liên hệ. Ngài cũng xin lỗi tất cả những ai Ngài đã làm phiền lòng, những ai Ngài đã không phục vụ đủ, những ai Ngài đã không thương yêu đủ. Ðức Thánh Cha đã nói lên thành thực tâm tư của Ngài. Những lời của Ðức Thánh Cha đánh thức tâm tư của ta. Ta cũng muốn nói như Ngài. Tạ ơn và sám hối. Ðể có hiệu lực hơn, ta nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Ðức Kitô để tạ ơn. Nếu không, tạ ơn của ta sẽ quá bất xứng. Nhờ Ðức Kitô để sám hối. Nếu không, sám hối của ta sẽ quá yếu kém. Nhân dịp Mùa Chay, tưởng cũng nên để ý một điều Giáo Hội dạy về tạ ơn và sám hối. Kinh Tiền Tụng III Mùa Chay đã nói: “Chúa muốn chúng con dùng việc hãm mình để tạ ơn Chúa, để việc hãm mình giúp chúng con là những người tội lỗi sống tiết độ hơn”. Hãm mình để tạ ơn. Hãm mình để cải hoá. Ở địa vị kẻ coi sóc gia đình Chúa lúc này, chúng ta không cần tạo ra dịp để hãm mình. Dịp luôn luôn có sẵn đó. Biết lợi dụng, tất cả sẽ trở thành việc hãm mình để sám hối và để tạ ơn.
Tâm tư thứ hai đáng nói là Lo sợ
Có nhiều lý do làm ta lo sợ. Mới rồi, tôi đọc lại cuốn sách dịch, in tại nhà in Tân Ðịnh cuối thế kỷ trước. Sách mang tựa đề: “Ðấng làm thầy có quyền tế lễ”. Nội dung khuyên răn các Linh mục. Có những dòng như sau: “Những kẻ Ðức Chúa Trời chọn lên thiên đàng thì ít lắm... Con phải kinh hãi. Vì chưng trong các con chiên, những kẻ đặng rỗi còn ít dường ấy, huống chi trong đấng làm thầy, những kẻ đặng rỗi thì càng ít hơn nữa là dường nào”. Suốt 7 trang dài, tác giả giải nghĩa lời quả quyết đó. Tất cả các lý lẽ ngài đưa ra biện minh cho ý kiến đó đều dựa trên tam đoạn luận đại khái thế này: Chỉ những ai theo đường hẹp Phúc Âm mới được vào thiên đàng, thế mà vô số Linh mục không sống theo đường hẹp Phúc Âm. Cho nên vô số Linh mục phải mất linh hồn. Rồi tác giả kể ra thế nào là không sống theo đường hẹp Phúc Âm. Thí dụ ăn ở kiêu căng, ham quyền cố vị, thích tiền của, mê xác thịt, nguội lạnh, biếng trễ việc bổn phận, bất phục tùng bề trên. Ðọc xong đoạn đó, tôi có cảm tưởng là tác giả quá tiêu cực, chịu ảnh hưởng quá nhiều Jansénisme. Tuy nhiên, thú thực, tin tác giả thì quả không tin, nhưng lo thì không phải là không lo.
Nhiều khi tôi cũng suy nghĩ về sách Khải Huyền, đoạn II và III. Trong đó đã có những lời cảnh cáo gởi cho các vị cai quản giáo đoàn. Với những kể tội, với những hình phạt sẽ tới. Lời lẽ bóng bẩy, kín đáo, nhưng rất nghiêm khắc. Thực sự, nếu tác giả Khải Huyền chủ ý gây cho các vị lãnh đạo tôn giáo một sự kinh sợ hữu ích, thì chúng ta cũng nên sợ lắm. Chẳng hạn những lời răn đe sau đây của Ngài về chứng nguội lạnh: “Vì ngươi không nóng không lạnh, hâm hâm dở dở, nên Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta”. Thực rất đáng sợ.
Một lý do khác khiến ta lo sợ, đó là nhận thấy sự tha hoá của chức tư tế xảy ra nhiều nơi, nhiều thời trong lịch sử. Tha hoá nghĩa là trở nên khác, là biến thể, là không còn bản chất thực sự của nó. Thời Chúa Cứu thế, nhiều thầy cả đạo cũ đã sống một chức tư tế biến thể. Ðã có một sự tha hoá lớn lao. Sau cùng Chúa Giêsu bãi bỏ quyền chức thầy cả như thế. Thời Trung cổ đã có những nơi quyền đạo trở thành quyền đời, chức thánh được coi như một bậc thang xã hội, cái nhìn về con người giáo sĩ bị ô nhiễm, bởi vì thực tế chức thánh đã bị biến thể. Chúa không vì thế mà bãi bỏ chức thánh, nhưng đã có những biến cố lịch sử đến dẹp bỏ tha hoá, tẩy rửa não trạng, uốn nắn lại vị trí chức thánh. Nếu lịch sử là những tái diễn, thì cũng nên lo với câu hỏi về hiện tại: Liệu chức thánh thời nay có bị tha hoá không? Ở những nước khác, ở nước ta, ở chính mình ta? Không thấy chưa chắc nghĩa là không có.
Trên thế giới hiện nay, những nước dễ được phong chúc Linh mục thì ít người muốn chịu chức, những nước có nhiều người muốn chịu chức Linh mục thì không dễ được phong chức. Nơi đông thì xuất. Nơi hiếm thì không thêm. Thế nghĩa là gì? Nếu nhận rằng thế giới càng ngày càng cần được cứu độ, và một trong số dụng cụ cứu độ Chúa dùng vẫn còn là Linh mục, thì vấn đề rõ ràng sẽ là: cần phải cứu độ chính Linh mục là những dụng cụ cứu độ, về lượng và nhất là về phẩm. Khi suy nghĩ vấn đề đó, những ai đang có trách nhiệm coi sóc gia đình Chúa không khỏi lo sợ.
Tâm tư thứ ba đáng nói là Hy vọng
Biết lo sợ cũng là con đường dẫn tới khôn ngoan. Initium sapientiæ timor Domini. Thứ lo sợ dẫn tới khôn ngoan là thứ lo sợ đào sâu hy vọng.
Hy vọng của ta được đào sâu bằng việc dọn mình chết mỗi ngày, với những cố gắng sửa sai, với những quyết tâm mới cải thiện đời sống, với những thiện chí mới dứt lìa tất cả những gì không đẹp ý Chúa, với sự thanh toán cặn kẽ trước mặt Chúa tất cả những gì vướng mắc lương tâm. Mỗi ngày đều trong tư thế sẵn sàng ra trước toà Chúa. Mỗi ngày dâng lễ như dâng lễ lần cuối. Ðể ra đi với niềm hy vọng.
Hy vọng của ta được đào sâu bằng việc ta tăng thêm lòng mến. Ai mến nhiều thì sẽ được tha nhiều. Tăng lòng mến đối với Chúa. Tăng lòng mến đối với mọi người. Tăng lòng mến đối với Hội Thánh. Nếu có câu hỏi đặt ra mỗi ngày: Chúa cần gì? Tôi sẽ thưa Chúa cần được yêu mến nhiều hơn. Tôi muốn yêu mến Người luôn mãi. Nếu có câu hỏi nào đặt ra hôm nay: Con người Việt Nam hôm nay muốn gì? Tôi sẽ thưa: Con người Việt Nam hôm nay cần được yêu thương nhiều hơn. Tôi muốn yêu thương con người Việt Nam hơn mãi. Nếu có câu hỏi nào đặt ra lúc này: Hội Thánh cần gì? Tôi sẽ thưa: Hội Thánh cần được yêu kính nhiều hơn. Tôi muốn kính yêu Hội Thánh hơn mãi. Tình yêu nuôi hy vọng. Hy vọng chữa trị lo âu.
Hy vọng của ta được đào sâu bằng sự vững tin vào Chúa. Dù ta là thế nào, ta vẫn là kẻ được Chúa cứu chuộc. Chúa là Cha nhân từ. Lòng thương xót Người vô tận. Công nghiệp Chúa Kitô lớn lao vô cùng “Vivre l'inespéré” đó là tựa đề cuốn sách Frère Roger, đó cũng là điều ta muốn sống. Hy vọng cả những điều xem ra thất vọng. Chúa Kitô đã hứa: “Cha không để chúng con mồ côi. Cha sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa Cứu thế cũng đã cầu nguyện với Ðức Chúa Cha: “Con muốn rằng, Con ở đâu, chúng sẽ ở đó với Con”. Như thế là mỗi ngày Chúa ở với ta, đời này Chúa ở với ta, đời đời ta ở với Chúa. Niềm tin đó là nguồn mọi hy vọng. Nếu nên nhìn Giáo Hội không phải chỉ là một xã hội, mà còn như là một Mầu nhiệm, thì cũng nên nhìn Linh mục không phải chỉ là một con người, mà còn như là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm của tình thương. Thì đó chính là lý do hy vọng. In te speravi, Domine, non confundar in aternum.
ù
Những tâm tư trên đây, ta nói với nhau và cũng nói với Chúa. Những tâm tình như thế được diễn tả nhiều cách trong các kinh thánh lễ, các kinh nguyện phụng vụ, các kinh Mân Côi. Khi đọc các kinh đó một cách ý thức, ta thực sự sẽ sống những tâm tình tạ ơn, sám hối, lo sợ và hy vọng. Người coi sóc gia đình Chúa quen sống những tâm tình đó sẽ càng ngày càng trở nên rất là người, dễ được cộng đoàn thương mến.
Lạy thánh Giuse, là Ðấng Chúa đã đặt lên coi sóc gia đình Chúa, xin thương cầu cho chúng con.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên