Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-

 NÓI VỚI NỮ TU
Tĩnh tâm các Nữ Tu
Dòng Chúa Quan Phòng Cù Lao Giêng
tháng 6/1992         -1992-

 TÂN PHÚC ÂM HOÁ
Tuần tĩnh tâm linh mục giáo phận Long Xuyên - 1993

 HUẤN LUYỆN TRƯỜNG KỲ LINH MỤC - 1994
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 3/1995                 - 1995
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, 1996                 - 1996
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 10/1997             - 1997
 Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 5/1999             - 1999
 CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ  - 1999
 ÐẦY TỚ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN  - 1999
 -*-
 

ÐẦY TỚ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN

Fidelis

 

Ðây là đầy tớ trung tín và khôn ngoan...”. Câu đó là Lời Chúa. Người đầy tớ tốt có nhiều đức tính. Nhưng Chúa đã chọn hai đức tính để tuyên dương, đó là trung tín và khôn ngoan. Lời Chúa không phải chỉ là một phát biểu có uy tín, mà còn là mạc khải. Chúa mạc khải cho thời đó và cho thời nay. Sống trong thời nay, ta đã thấy rõ trung tín và khôn ngoan cần thế nào. Ðó là hai tiêu chuẩn ta thường để ý khi con người cộng tác. Ðó cũng là hai điều kiện Giáo Hội Việt Nam đang đòi linh mục Việt Nam phải biểu hiện. Giờ này chúng ta dừng lại ở điểm Trung tín.

Lúc này không nên luận bàn về đức trung tín theo kiểu lý thuyết sư phạm. Giữa chúng ta và do hoàn cảnh mục vụ lúc này đặt ra, vấn đề trung tín được nhấn mạnh đến ba điều sau đây:

 l. Linh mục Việt Nam hôm nay cần biểu dương sự trung tín với một luật sống tu trì

Nói tới một luật sống tu trì là nói tới tinh thần tu được biểu hiện trong một kỷ luật, là nói tới một sự sắp xếp đời sống bảo đảm cho phẩm chất người tu. Luật sống tu trì không phải cái gì ta bịa đặt ra, nhưng là những đòi hỏi chính đáng của chức vụ, bảo vệ uy tín và thêm sức mạnh thiêng liêng cho linh mục. Mỗi người chúng ta nên tự đặt ra cho mình một luật sống, dựa theo những nguyên tắc căn bản và thích nghi với hoàn cảnh thực tế.

Luật sống tu trì của ta ở họ đạo không nên quá chi tiết và máy móc, kẻo trở thành lố bịch. Nhưng dù lỏng lẻo, những việc quan trọng cho phẩm chất đời tu cần phải được thực hiện một cách trung tín. Thí dụ việc nguyện gẫm và viếng Chúa Giêsu Thánh Thể. Ngay từ lâu trước khi làm Giáo Hoàng, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thường vun tưới tinh thần tu và khả năng mục tử của mình bằng hai việc đó. Hằng ngày, Ngài nguyện gẫm rất lâu trước nhà chầu có Mình Thánh Chúa. Ai trong chúng ta cũng đã có kinh nghiệm về đời sống thiêng liêng của mình. Những thời gian ta trung tín với việc nguyện gẫm và viếng Mình Thánh Chúa là những thời gian bản lãnh linh mục của ta thấy vững thấy đẹp hơn bất cứ thời gian nào khác.

Ngoài ra, một chi tiết khác của luật sống tu trì cần được thực hiện một cách trung tín, đó là sự năng đọc sách: sách đạo và những sách đời nên biết. Hiệu năng mục vụ một phần tuỳ thuộc vào trình độ trí thức của linh mục. Nếu không bồi dưỡng thường xuyên, trí óc sẽ cùn đi, chân trời văn học của mình sẽ co lại, chỗ đứng của mình trong xã hội sẽ tụt xuống.

Sau cùng, luật sống tu trì của ta ở họ đạo rất cần được biểu hiện trong sự giữ mực thước về ngủ nghỉ ăn uống, đi lại tiếp xúc. Mực thước là một dấu chỉ của tinh thần khắc kỷ. Ta sẽ hiểu ngay tầm quan trọng của điểm này, khi ta nhớ lại những Lời Chúa dạy sau đây: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”. “Ðường hẹp đưa tới cứu rỗi, đường rộng dẫn tới diệt vong”.

 2. Linh mục Việt Nam hôm nay cần biểu dương lòng trung tín với Giáo Hội qua các Giám Mục của mình

Khi nói tới điểm này, tôi ý thức thân phận bất xứng của tôi. Tôi nhớ lời thánh Phaolô gởi Timôtêô. Ngài viết: “Một điều chắc chắn, đáng tin, không chút nghi ngờ, là Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế gian để cứu vớt các kẻ có tội, mà người tội lỗi nhất chính là tôi. Và ơn thương xót tôi được đây trước là để Chúa Giêsu Kitô tỏ lòng khoan dung đối với tôi sau là để làm gương thương xót cho những kẻ sẽ tin Ngài, để họ được sống đời đời” (1Tm 1,15-16). Tôi cũng muốn nói về mình như thế và hơn thế. Trong ý thức chân thành đó, tôi tin rằng chúng ta đang nhìn nhau bằng con mắt đức tin nhiều hơn bằng con mắt xác thịt cũng như đang đặt lợi ích mục vụ lên trên mọi khía cạnh tư riêng. Với sự khiêm tốn của đức tin, ta nhớ lại lời ta cảm kết trung tín, khi đặt tay mình trong tay vị Giám Mục chủ phong ngày ta chịu chức Linh mục.

Sự trung tín của linh mục đối với Ðức Giám Mục của mình là một yếu tố mục vụ rất quan trọng. Sự linh mục kính trọng và vâng phục Ðức Giám Mục của mình được kinh nghiệm chứng minh là động lực rất mạnh để các linh mục biến cộng đoàn giáo dân của mình thành một khối hiệp nhất hậu thuẫn cho chính linh mục. Ở điểm này tôi khỏi nói về mặt giáo luật và tín lý. Chỉ nói tới ảnh hưởng về mặt đạo đức và tâm lý. Kinh nghiệm mục vụ cho thấy: sự đáng mừng nhất cho mỗi linh mục là được giáo dân của mình yêu kính, vâng phục. Ơn đó Chúa thường ban cho linh mục, qua sự chính linh mục yêu kính vâng phục Giám Mục của mình.

Một người vô tín ngưỡng nói với tôi, đại khái: Chúng tôi có trao đổi với nhau về trường hợp một vài cá nhân linh mục xem ra không sẵn sàng vâng phục Giám Mục. Chúng tôi cho rằng trong đạo làm đến linh mục là đã được huấn luyện nhiều lắm, đã chịu ơn Giáo Hội nhiều lắm, là phải gắn bó với Giáo Hội nhiều lắm. Như thế mà linh mục đó còn dám bất tuân Giám Mục lãnh đạo Giáo Hội, trong một chuyện bình thường, thì tin sao được sự trung tín của họ đối với chúng tôi. Vị đó dễ thay đổi thái độ với lãnh đạo Giáo Hội của mình, thì càng có khả năng thay đổi thái độ với lãnh đạo xã hội. Trên đây là một lý luận đúng. Do đó, sự linh mục trung tín với Giám Mục không phải chỉ là một điểm tựa để linh mục xây dựng sự hiệp nhất của họ đạo, mà cũng là một điểm tựa có lợi trước xã hội.

Trong những hoàn cảnh khó khăn, sự trung tín của linh mục đối với Giáo Hội qua các Ðức Giám Mục không nên chỉ là tránh tiêu cực, mà cũng cần biểu dương tích cực. Hãy vun gốc, để cho cành mạnh.

 3. Linh mục Việt Nam hôm nay cần biểu dương sự trung tín với sứ mạng tông đồ đối với người nghèo

Thực thế, bao lần ta đã nghe và đã nói đến khẩu hiệu “Giáo Hội của người nghèo”. Khẩu hiệu rất đẹp, rất hợp thời, bây giờ càng hợp thời hơn. Không những hợp thời, mà cũng rất hợp Phúc Âm. “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”. Ðó là bài sai Phúc Âm. Làm thế nào để trung tín với bài sai đó?

Chúng ta không ảo tưởng, cũng không chờ phép lạ biến nghèo thành giàu. Chúng ta thực tế, cố gắng làm cho người nghèo của ta những gì ta làm được và được làm cho họ, từ vật chất đến cách đối xử, đến những bí tích. Thí dụ khi ta tu sửa nhà thờ cho đẹp đẽ mát mẻ trang trọng, thì không phải ta chỉ nghĩ rằng làm thế là một cách tuyên xưng lòng tin mến của tập thể đối với Thiên Chúa cao cả, nhưng ta cũng nghĩ rằng: làm thế cũng là phục vụ giáo dân nghèo, tạo cho họ có một nơi để họ hưởng được một chút văn minh, một nơi để họ tìm được một sự nghỉ ngơi thư thái khả dĩ nâng tâm hồn họ lên. Rồi thí dụ khi ta trang trí cung thánh cho nghệ thuật, tổ chức phụng vụ cho nghiêm trang, thì không phải ta chỉ biểu dương một sự cung kính đối với Thiên Chúa, mà thực sự ta cũng muốn dùng những bề ngoài cao quý, đầy ý nghĩa đó đem niềm vui thanh cao đến cho dân nghèo. Rồi thí dụ khi ta dạy cho các em giáo lý những chi tiết về nhân bản, khi ta thăm viếng ủi an những người nghèo túng, khi ta dễ dãi một cách hợp lý trong việc ban bí tích cho những người lao động vất vả, ta thực sự đang là những việc có tính cách “đem Tin Mừng cho người nghèo khó”.

Nghèo là một thứ gông cùm. Tôn giáo là cứu độ, là giải thoát. Trong Phúc Âm, ta thấy Chúa Kitô giải cứu nhiều người khỏi đó và khỏi bệnh tật tai biến. Việc đó, ta vẫn cố gắng làm trong khả năng và với tất cả thiện chí của ta. Nhưng Chúa cứu thế quan tâm nhiều hơn đến công cuộc giải cứu người nghèo khỏi tội và khỏi mặc cảm. Các thứ đó cũng là gông cùm. Có ba thứ mặc cảm đè nặng người nghèo hôm nay, đó là mặc cảm hận thù, mặc cảm tự ti, mặc cảm sợ hãi. “Hôm nay, anh sẽ được về nơi vui vẻ với tôi”. Chúa nói lời đó với anh ăn trộm bên hữu. Lời đó vừa tha tội, vừa giải thoát anh khỏi mặc cảm sợ hãi, tự ti, hận thù. “Không ai kết án con sao? Ta cũng không kết án con. Con hãy về bình an”. Chúa nói lời đó với Madalena. Lời đó tha tội, vừa cứu cô khỏi mặc cảm hận thù, tự ti, sợ hãi. “Bà đó đã cho nhiều hơn bất cứ ai”. Chúa nói lời đó về người đàn bà nghèo, chỉ dâng hai đồng tiền nhỏ cho nhà thờ. Lời đó giải thoát bà khỏi mặc cảm tự ti, mặc cảm thua thiệt. Hơn nữa, lời đó còn đem lại cho bà một hãnh diện chính đáng. Là dụng cụ cứu độ, ta cố gắng theo gương Chúa cứu khỏi tội, cứu khỏi mặc cảm, để trung tín với sứ mệnh “được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”.

ù

Hứa trung tín là việc dễ. Giữ trung tín là việc khó. Người hứa trung tín có thói quen đeo nhẫn. Nhẫn nhắc cho họ lời hứa trung thành. Linh mục hứa trung tín, nhưng không đeo nhẫn. Thực sự việc đó không cần. Mỗi ngày, linh mục cầm trong tay và đón vào lòng chính sự trung tín “Chúa trung tín trong mọi lời Chúa nói, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm” (Tv 144). Nếu giờ phút đó, ta biết cầu xin ơn trung tín với Ðấng Trung Tín, chắc Ngài không từ chối.

Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên