CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ
“Ðã lãnh nhận nhưng không,
thì hãy cho đi nhưng không”
(Mt 10,8)
Khi một người gặp một người, thì tự nhiên có mối tương quan. Tương quan luôn được đặt ra giữa những con người cùng làm, cùng chung sống, cùng có việc với nhau. Tôi ra chợ mua đồ, thì tương quan giữa người bán với tôi là kẻ bán người mua. Khi một anh cảnh sát hỏi tôi giấy phép đi đường, thì giữa anh và tôi có tương quan quyền và bổn phận. Khi tông đồ đến với đoàn chiên thì có tương quan nào?
Chúa Giêsu nêu rõ ngay từ đầu, liền sau khi chỉ định cho tông đồ nhiệm sở và công việc phải làm. Ngài nói: “Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi những không”. Câu vắn tắt đó xác định tương quan của tông đồ đối với đoàn chiên không phải là tương quan mua bán, cũng không phải là tương quan đổi chác, nhưng là tương quan cho không. Tông đồ phải là người cho đi nhưng không. Tương quan này, nếu phân tích kỹ, sẽ giúp ta đổi mới cái nhìn về mình, về cộng đoàn và về thái độ của ta. Sự đổi mới này rất cần thiết để thích nghi với hiện tình xã hội.
Cho đi nhưng không: Tương quan đó ta phải thực hiện thế nào với cộng đồng Dân Chúa?
Việc thực hiện thứ nhất là hãy cho đi nhưng không sự kính trọng và chăm sóc đối với kẻ khác, nhất là kẻ bé mọn, túng nghèo, khổ đau
Ðọc kỹ Phúc Âm, chúng ta thấy hình thái cộng đồng Dân Chúa rất khác hình thái xã hội hành chánh. Xã hội hành chánh như một xã một tỉnh một nước thường được hình dung như một tháp nhọn, dưới là khối lớn những người phải vâng phục, trên là số ít người được quyền cai trị. Còn cộng đồng Dân Chúa được hình dung như vòng tròn của những bàn tay nắm lấy bàn tay. Vòng nọ trong vòng kia, và vòng sau chót được cưng nhất chính là những kẻ bé mọn, yếu đuối, nghèo nàn, đau khổ. Vòng tròn là hình ảnh sự bình đẳng huynh đệ: “Phần các con, đừng bắt người ta gọi các con là Rabbi, vì Thầy của các con chỉ có một, còn các con hết thảy đều là anh em. Và các con cũng đừng xưa hô ai dưới đất là cha của các con, vì Cha của các con chỉ có một là Cha trên trời. Các con cũng chớ cho gọi mình là vị chỉ đạo, vì vị chỉ đạo của các con chỉ có một là Ðức Kitô” (Mt 23,8-10).
Trong cộng đồng huynh đệ này, kẻ lớn là kẻ phải phục vụ nhiều hơn. Tuỳ mức phục vụ mà đo tầm lớn (x. Lc 22,26). Lúc rửa chân cho tông đồ, Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Chúa và là Thầy (x. Ga 13,14). Cùng trong ý đó, Ngài đã quả quyết: “Ai bé mọn nhất trong chúng con chính là người lớn nhất” (Lc 9,48), tức là họ phải được chăm sóc phục vụ nhiều hơn.
Nếu trong cộng đồng này, Chúa đã đồng hoá mình với những người nghèo (x. Mt 25,34-40) và với trẻ nhỏ (x. Lc 9,48) thì ta sao có thể không kính trọng và quan tâm tới họ. Nếu trong cộng đồng này, Chúa đã có lần nói với các thượng tế và hàng niên trưởng: “Quả thật, tôi bảo các ông, những người thu thuế và những đĩ điếm qua trước các ông mà vào Nước Trời” (Mt 21,31), thì ta sao có quyền khinh dể những người tội lỗi. Nếu trong cộng đoàn này, Chúa đã bảo “Ðừng xét đoán để khỏi bị xét đoán” (Mt 7,1) thì tại sao dám kết án những người không cùng tin tưởng và hành động như ta.
Ðức tin ta có, chức Linh mục ta mang, nền đạo ta giữ, toàn là những thứ ta đã lãnh nhận nhưng không. Vốn liếng nhiều như vậy, mà ta vẫn còn yếu đuối, vẫn còn lỗi lầm. Nếu mấy người bổn đạo, mấy người nghịch đạo cũng được ơn Chúa như ta, biết đâu họ đã khá hơn ta bội phần. Thế thì đừng khinh ai, đừng bỏ rơi ai. Hãy biết kính trọng, hãy biết chăm sóc lo lắng cho các anh em, nhất là những kẻ bị khổ đau, bé mọn, thiệt thòi. Ðã lãnh nhận những không, thì hãy cho đi nhưng không.
Việc thực hiện thứ hai là hãy cho đi nhưng không tình yêu thương quảng đại
Khi nhìn kỹ tương quan trong cộng đồng Dân Chúa, ta thấy nó có một nguồn gốc khá đặc biệt. Vợ chồng thì do lựa chọn. Cha mẹ con cái thì do tình huyết nhục. Ðồng bào một nước thì do cùng một dòng giống, cùng một quê hương. Còn cộng đồng Dân Chúa thì chỉ do chung một niềm tin vào Cha trên trời. Vì xác tín Chúa là Cha, nên mọi người coi nhau như anh em. Mối tương quan giữa anh em với nhau là tình thương. Vì thế chỉ có tình thương mới là dấu chỉ đích thực của người con Chúa. Ðặc điểm giới biệt phái là giữ luật cặn kẽ, đặc điểm môn đệ Gioan Baotixita là sống khổ hạnh. Còn đặc điểm môn đệ Chúa Giêsu là yêu thương nhau. Chính Chúa cứu thế đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau” (Ga 13,35).
Tình yêu quảng đại không những là đặc điểm đích thực của người con Chúa, mà nó cũng còn là dấu chỉ của sự toàn hảo Phúc Âm. Nhiều nhà đạo đức có thói quen cắt nghĩa sự toàn hảo Phúc Âm là giữ trọn mọi lề luật. Nhưng nếu đọc kỹ Phúc Âm thánh Matthêu đoạn 5, phần cuối, ta sẽ thấy rõ sự trọn lành Phúc Âm phải hiểu trước hết về giới luật yêu thương. Chúa nói: “Hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5,18). Cha trên trời trọn lành, vì “Ngài yêu thương mọi người, làm cho mặt trời mọc lên cho cả kẻ lành lẫn kẻ dữ, làm mưa cho người công chính cũng như cho người bất chính” (Mt 5,45).
Nếu yêu thương là dấu chỉ của sự trọn lành Phúc Âm, và là đặc điểm của môn đệ Chúa, thì người tông đồ phải rất nổi bật về điểm đó.
Xưa khi giảng về đức yêu thương, Chúa đã kết án thầy cả đạo cũ và đưa một người ngoại Samari lên làm gương bác ái. Nếu hôm nay Chúa giảng lại bài đó, có chắc Ngài sẽ không lại kết án thầy cả đạo mới? Tình thương của Chúa, ta đã lãnh nhận nhưng không, thì ta cũng hãy cho đi nhưng không.
Việc thực hiện thứ ba là hãy cho đi nhưng không sự tha thứ
Yêu cầu quan trọng, thường xuyên và bức thiết nhất của một cộng đồng là biết tha thứ. Dù cộng đồng chỉ gồm hai người, thì điều thực tế cần thiết nhất cũng vẫn là tha thứ. Vì tha thứ là điều kiện tối thiểu để cho cộng đoàn được hợp nhất và tồn tại. Ðiều đó cũng là điều mà người tông đồ phải thực hiện trong tương quan cho đi của mình.
Ở đây thiết tưởng ta nên nhớ lại dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ vua 10.000 lạng vàng. Vua tha nợ cho hắn. Hắn có một người mắc nợ hắn chỉ 10 đồng bạc. Nhưng hắn cố tình không tha. Hắn nạt nộ, hành hạ, bỏ tù, bắt trả đủ mới tha. Kết thúc ra sao, chúng ta đã rõ (x. Mt 18,23).
Nếu khiêm nhường, chúng ta có lý để lo. Không chừng người tôi tớ mắc nợ vua lại chính là ta. Ta đã được Chúa tha thứ nhiều lắm. Sự tha thứ của Chúa là một ân huệ vô điều kiện. Ta đã lãnh nhận nhưng không. Ðến lượt ta đối với người khác, ta có tha thứ dễ dàng không? Tha thứ, chứ không phải chỉ là bỏ qua. Trong tha thứ có tình thương, đang khi bỏ qua vốn phảng phất thái độ kiêu kỳ, như thể còn để tội đó.
Trong nhà ta ở, trong họ đạo ta phục vụ, nếu ta chỉ muốn chấp nhận những người vừa ý ta, theo sự lựa chọn của ta, để chỉ có thể yêu thương mà không cần tha thứ, hay có tha thứ thì cũng chỉ áp dụng cho người thân yêu, thì quả thực ta đã chối từ bác ái. Chúa phán: “Nếu các con mến yêu những kẻ yêu mến các con, thì các con có công gì? Những người thu thuế không làm như thế sao? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con, thì các con đâu có làm gì lạ! Người ngoại không làm thế sao?” (Mt 5,46-47).
Trên trái đất này, muốn chọn một chỗ không cần phải tha thứ, thì là muốn một điều quá lý tưởng, đồng thời cũng là muốn bỏ quên bác ái. Không chấp nhận tha thứ cũng là như nhận mình không cần được tha thứ và cũng như nói mình đã không được Chúa thứ tha, nên chẳng cần tha thứ cho ai.
Ta khó khăn trong việc tha thứ cho kẻ khác, đang khi chính ta có lẽ đã là gánh nặng gây phiền hà khổ đau cho bao nhiêu người nhưng nhờ sự họ tha thứ mà ta vốn được chấp nhận.
Những kinh Cáo Mình và Lạy Cha đọc lên hằng ngày sẽ chẳng có nghĩa gì, nếu ta không tha thứ thực tình và dễ dàng cho các anh em ta. “Ðã lãnh nhận nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không”.
ù
Tương quan cho đi nhưng không là một thứ tương quan thuộc về tâm hồn lớn mạnh. Tâm hồn nhỏ vốn hẹp hòi. Tâm hồn yếu vốn so đo. Tương quan cho đi nhưng không chỉ thực hiện được một cách bình thản chân thành bởi những con người đạo đức trưởng thành. Họ quen có nghị lực từ khước chính mình, nên họ có nghị lực dễ dàng yêu mến vị tha. Họ quen có nghị lực bắt mình khổ chế, nên họ có nghị lực dễ dàng tha thứ. Họ quen nhìn ngắm và giao tiếp với Ðấng “hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, nên họ dễ dàng kính trọng tha nhân. Cho đi nhưng không là biểu hiệu sự dồi dào của một nghị lực và của một tình yêu. Như thế, chúng ta hiểu được tương quan cho đi nhưng không kêu gọi mỗi người chúng ta đưa ra những quyết tâm nào.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, 1999