CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ
“Hãy đi rao giảng rằng Nước Trời đã gần đến”
(Mt 10,7)
Sau khi đã chỉ định nhiệm sở cho các tông đồ, Chúa Giêsu bảo cho họ biết họ được sai đi để làm gì. Ngài nói: “Hãy đi rao giảng rằng Nước Trời đã gần đến”. Khi dừng lại suy gẫm Lời Chúa trên đây, ta gặp thấy có mấy điều nên đào sâu, để thêm nhất trí và nhiệt tình với Ðấng sai ta.
Ðiều thứ nhất nên đào sâu là vấn đề rao giảng
Phúc Âm cho thấy rao giảng là bổn phận thứ nhất Chúa trao cho tông đồ. “Hãy đi rao giảng” (Mt 10,7). Nếu ôn lại lễ nghi thụ phong Phó tế và Linh mục, ta cũng thấy ta đã được trao phó việc rao giảng như một nhiệm vụ quan trọng và căn bản. Thực vậy, một trong những phương tiện gây nhiều hậu quả tốt cho đạo, cho các linh hồn và cho chính Linh mục là biết giảng. Trái lại, không biết giảng là một trong những căn cớ gây bất lợi và thiệt thòi nhiều thứ. Vì thế, ưu tư của mọi người chúng ta về việc giảng thường là: Phải làm thế nào để lời ta giảng sinh được hiệu quả lành thánh. Tiên vàn thiết tưởng cũng nên xác định được điều này: Một bài giảng sinh được hiệu quả nhiều ít không chỉ tuỳ thuộc nơi người giảng, mà còn tuỳ thuộc nơi người nghe. Dụ ngôn lúa gieo trên đá sỏi, bụi gai và đất tốt minh chứng điều đó. Vì thế, hậu quả ta mong ở đây chỉ là một thứ hậu quả tương đối, khi giả thiết người nghe là đất tốt.
Ðể một bài giảng sinh được hậu quả tốt, ta phải làm gì? Ở đây chỉ xin nhắc tới vài điều cần thiết.
Trước hết phải làm cho bài giảng đạt được ba mục đích này là soi sáng trí khôn, lay động ý chí và gây được cảm tình.
Socrate xưa đã dám quả quyết mạnh: Không ai biết mà lại làm sai. Người ta lỗi chỉ vì không biết. Lời quả quyết của Socrate đúng trong một phương diện nào đó. Rất nhiều người lỗi lầm chỉ vì biết sai hay biết không đủ. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã xin tha cho những người mà khách quan phải cho là nặng tội. “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Trong những hoàn cảnh mà chân lý và những sự thực nguỵ tạo pha trộn với nhau, ta càng cần phải dạy dỗ giáo dân những sự thực cần thiết về phần rỗi, về Thiên Chúa và về con người. Trong những hoàn cảnh mà đầu óc con người bị mệt mỏi vì phải vật lộn quá nhiều với những vấn đề sinh sống, ta càng cần phải khôn khéo gợi cho họ nghĩ tới những gì thanh thoát cao thiêng.
Nhưng đạo không phải là một hệ thống tư tưởng khô cứng, mà chính là một cuộc sống có những lựa chọn. Bài giảng nào cũng đưa tới một sự nào phải lựa chọn. Lựa chọn là việc của ý chí dưới ánh sáng của lý trí. Nên phải khéo lắm để động viên ý chí biết chấp nhận lựa chọn điều ta đề nghị. Do đó, lời giảng đôi khi phải là những tiếng kêu của trái tim ta gọi đến những trái tim khác.
Ngoài ra, gây cảm tình cũng là điều không nên khinh thường. Rất nhiều người đến nghe ta giảng, không phải vì mục đích học hỏi, cũng không vì muốn cải thiện đời sống. Họ đến nghe chỉ vì tò mò, vì thấy hay hay, thấy lạ, thấy thích thú. Chính nhờ bước đầu đó mà nhiều giáo dân hờ hững khô khan đã tìm được đường về nhà Cha, cũng chính nhờ bước đầu đó mà nhiều người ngoại giáo đã đi vào đường mến đạo, tìm hiểu đạo và theo đạo.
Ý thức rõ ba mục đích nói trên, ta sẽ thấy việc chọn lựa đề tài, tư tưởng và diễn tả là điều cần thiết. Do đó, phải chuẩn bị cho thực kỹ, bằng sự nghiên cứu, suy gẫm, cầu nguyện, soạn bài chu đáo. Một bài giảng ngắn nhưng gọn gàng rõ rệt, sốt sắng vốn lợi hơn một bài dài nhưng luộn thuộm. Nếu bài giảng lại được hỗ trợ bằng đời sống đạo đức của bản thân ta và hoà nhịp với những lễ nghi phụng vụ trang nghiêm sốt sắng, thì hậu quả sẽ rất tốt. Một câu của Cha J.D. Rambaud, OP., tác giả cuốn Traité moderne de prédication, có kể tóm tắt bí quyết thành công của một bài giảng. Ngài viết: “Hãy chờ kết quả chỉ nơi một mình Chúa. Nhưng hãy làm hết sức như kết quả chỉ tuỳ thuộc ở một mình ta”.
Ðiều thứ hai nên đào sâu là nội dung Chúa muốn ta rao giảng
“Hãy đi rao giảng rằng Nước Trời đã gần bên”. Ở đây chúng ta không có ý ôn lại những đoạn khoa Kinh Thánh cắt nghĩa về Nước Trời. Nhưng chúng ta cũng có thể quan niệm đúng đắn về Nước Trời, nhờ một câu cô đọng của Kinh Tiền Tụng lễ Chúa Kitô Vua. Nước Chúa là “Nước chân lý và sự sống, nước thánh thiện và ân sủng, nước công chính, yêu thương và an bình”. Toàn là những đặc điểm mà con người khát vọng. Họ khát vọng bởi vì họ thiếu thốn. Ðáp ứng lại những khát vọng đó là việc của tông đồ. Ðáp ứng bằng cách loan Tin Mừng về Nước Trời. Rằng tất cả những sự tốt đẹp con người khát khao đều sẽ tìm được ở Nước Trời. “Nước Trời đó, chính là Ðức Kitô phục sinh”, như Origène nói.
Nhưng cái làm cho người ta mừng không hẳn là sự hiểu được nội dung Nước Trời, mà là được biết Nước Trời đó đã gần bên. Người đói thì chỉ mong có gì thực sự để ăn, chứ đâu có mong được ngồi nghe cắt nghĩa cơm là gì, thịt cá là gì. Con người khổ đau nhiều khi không mong được hiểu hơn về các thứ tốt đẹp, kể cả Nước Trời, mà chỉ mong tìm được thực sự ít nhiều những thứ đó. Nhận định điều này là để chúng ta biết cái mấu chốt tâm lý chúng ta phải nhấn mạnh, khi rao giảng Tin Mừng, đó là sự gần gũi của Nước Trời. Phải nhấn mạnh rằng Nước Trời đã gần bên.
Nước Trời thực sự đã gần bên, ở chỗ Chúa Giêsu là người bạn đường. Chúa không phải là một Ðấng xa xôi, một thầy dạy khôn ngoan xa cách. Ngài là người bạn đường, Ngài là Emmanuel, hôm nay cũng như ngày xưa. Chúa ở bên ta như xưa ở bên tông đồ, bên những người nghèo khó. Chúa ở bên ta dù ta không thấy. Người khách lạ đi cùng đường trên chuyến Emmau, hai môn đệ không biết là ai, nhưng đúng là Ngài. Người đứng cạnh Madalena bên nấm mồ hoang vắng, Madalena tưởng đó là ông giữ vườn, nhưng chính là Ngài. Chúa ở bên ta.
Nước Trời thực sự đã gần bên, ở chỗ Chúa là người Cha nhân lành. Chim trên trời, hoa đồng nội còn được Cha trên trời lo cho, huống chi con cái của Người. Hãy đặt mình vào đúng địa vị người con. Chờ đợi lãnh nhận trong khiêm nhu phó thác hơn là chờ đợi lập công trong thái độ tự lập. Con làm sao thì Cha chấp nhận như vậy, miễn là nó đừng từ chối lãnh nhận ơn ban, miễn là nó biết giơ tay ra cầm lấy tay Cha mình.
Nước Trời thực sự đã gần bên, ở chỗ Chúa là tình yêu, không phải một tình yêu chung chung, nhưng là một tình yêu cho ta và của ta. Người ta chỉ hiểu được tình yêu khi người ta yêu. Hãy yêu mến Chúa, rồi sẽ hiểu Ngài gần gũi thân mật đến mức nào.
Nước Trời thực sự đã gần bên, ở chỗ đạo không phải là một thứ gánh nặng, nhưng là một cuộc sống ân tình với Chúa và yêu thương tha nhân. Ðạo không phải là một xiềng xích luật lệ buộc trói người ta hết vòng này đến vòng khác, nhưng đạo là dây liên đới sống động chân tình giữa con người với Chúa, đạo chính là sự gặp gỡ bản thân của con người với một tình yêu sống động.
Nước Trời thực sự đã gần bên, ở chỗ đạo không phải là một hệ thống hình thức, nhưng căn bản là sự thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Nếu Chúa chỉ ở nhà thờ, thì vẫn có khoảng cách, vẫn còn xa xôi. Nhưng nếu trong tinh thần và trong chân lý, ta gặp được Chúa ở chính bản thân, ở biến cố, ở tha nhân, ở khắp nơi, thì không gì gần bằng.
Nước Trời thực sự đã gần bên, trong tầm tay mọi người thiện chí.
Ðiều thứ ba nên đào sâu là việc chuẩn bị cho Nước Trời
Trong sắc lệnh về Tông đồ giáo dân, Công đồng Vatican II đã nói: “Công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô cốt nhằm sự cứu rỗi nhân loại, nhưng đồng thời cũng nhằm cả việc cải tạo trần thế. Vì thế sứ mạng của Hội Thánh không phải chỉ là sứ mạng đem Tin Mừng của Chúa Kitô và ân sủng của Người đến cho nhân loại, mà còn là đem tinh thần Tin Mừng thấm nhập và làm cho hoàn hảo trật tự trần thế”.
Lời dạy trên đây của Công đồng soi sáng cho ta thấy rằng: Nội dung điều Chúa truyền tông đồ rao giảng không những chỉ là việc loan báo Nước Trời đã tới, mà còn là việc dạy cho con người biết đi vào đường dẫn tới Nước Trời, hoặc trực tiếp bằng các hành vi tôn giáo, hoặc gián tiếp bằng sự cải tạo các thực tại trần thế để được hoàn hảo hơn. Có nhiều thực tại trần thế như sự sống, gia đình, kinh tế, văn hoá, lao động sản xuất, các tương quan xã hội. Cải tạo xã hội phải coi là một nhiệm vụ của tông đồ. Có thể gọi nó là việc chuẩn bị cho Nước Trời. Vì thế ta cũng phải dành cho nhiệm vụ đó một sự quan tâm xứng đáng.
Phải nói ngay rằng trong thực tế, ta không có tham vọng cải tạo những điểm rộng lớn. Ta chỉ nói tới phạm vi xã hội nhỏ bé là nhiệm sở của ta. Nếu để ý một chút, ta sẽ thấy tại mỗi nhiệm sở của ta có ít là ba điểm cần phải được cải tạo.
Trước hết là kinh tế cần được cải tạo. Hãy nỗ lực giúp cách cho giáo dân ta được no ấm hơn, được bớt bệnh tật hơn, được thanh thản hơn. Nhiều người khổ, người không ra kiếp người.
Rồi tục lệ cần được cải tạo. Nhiều nơi còn quá nặng những tục lệ xấu, như nhậu nhẹt cỗ bàn trong các đám tang, cưới hỏi với quá nhiều tính chất tiền bạc, bầu bán tranh chấp, rước phách lùm xùm, vv...
Ngoài ra, chính con người càng cần cải tạo hơn. Nhiều người thiếu hẳn những đức tính nhân bản, cả đến những điều tối thiểu. Quê mùa, cộc cằn, bất lịch sự, nói năng thô lỗ, ăn mặc nhem nhúa, nhà cửa do bẩn, tò mò, đê tiện, dối trá, giả hình, vv...
Mọi công việc cải tạo của ta phải có tính cách một dấu chỉ, mời gọi người ta tìm về Nước Trời. Sự cải tạo, dù nhỏ tới đâu, cũng phải nhằm gây nên một cuộc gặp gỡ, không phải một cuộc gặp gỡ hời hợt giữa một người cho và một người nhận, mà là một cuộc gặp gỡ giữa một tâm hồn với một tình yêu.
ù
“Hãy đi rao giảng rằng Nước Trời đã gần bên”. Giảng là một nghệ thuật. Nhưng giảng Tin Mừng còn là một sự sống. Sống Tin Mừng để giảng Tin Mừng. Giảng Tin Mừng bởi đã sống Tin Mừng. Giảng Tin Mừng chỉ là một sự chia sẻ đời sống Tin Mừng, với những kinh nghiệm bản thân, với những khắc khoải của nhiệt tình tông đồ, với chính sự kết hợp thân mật với Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng vì thế mà đôi khi thinh lặng đúng lúc cũng là một bài giảng hùng hồn, thinh lặng lúc đó chứng tỏ nghị lực khiêm tốn, tự chế và hy sinh. Giảng thường bằng lời, nhưng đúng ra là giảng bằng tất cả con người. Và như thế phải cố gắng để chính con người tông đồ được coi là một Tin Mừng sống động loan báo “Nước Trời đã gần bên”.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, 1999