1996
Một thoáng nhìn về các giáo điểm vùng sâu
Tôi mới đi thăm mục vụ những giáo điểm vùng U Minh thượng. Ðây là những cộng đoàn nhỏ, cách xa nhau, rải rác ở các miệt thứ.
Kỷ niệm năm xưa
Lần đầu tôi đến vùng sâu này là ngày lễ Noel 1969. Hôm đó, nhân dịp đình chiến, tôi tình nguyện đi vào vùng giải phóng ở U Minh. Mục đích là tìm thăm những cộng đoàn công giáo. Chỉ nghe nói có vài cộng đoàn nhỏ trong vùng mênh mông đó, nhưng không rõ ở những địa danh nào. Tôi đi với một linh mục bạn. Phương tiện là đò máy. Sáng sớm, khởi hành từ Tắc Cậu. Qua sông Cái Nhỏ, rồi sông Cái Lớn, đò đi vào con sông rất dài chảy qua các miệt thứ.
Gần trưa, tới (*)thứ 9, nhìn lên bờ, thấy xa xa mấy đèn ông sao treo lác đác. Chúng tôi vội đứng lên mũi đò vẫy tay. Lúc đó chúng tôi mặc áo dài đen linh mục. Lập tức, có vài người chạy theo đò. Rồi nhiều người, rồi cả một đám đông tuốn ra reo hò. Ðò dừng lại. Chúng tôi lên bờ. Một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ, đầy xúc động. Nhiều người khóc. Ðã hơn chục năm rồi, cộng đoàn ở đây không gặp được linh mục.
Quá trưa, chúng tôi cho đò chạy ngược về phía Xẻo Rô. Ði sâu vào kênh rạch, chúng tôi lại được vui sướng gặp một cộng đoàn nhỏ khác ở Rọc Lá. Cũng đã từ rất lâu, cộng đoàn này không có dịp tham dự thánh lễ.
Noel năm ấy đã để lại trong tôi những kỷ niệm đẹp, những ấn tượng sâu. Từ đó đến nay, các giáo điểm đó và các giáo điểm khác tại những vùng xa vùng sâu ấy không những đã tồn tại, mà còn phát triển. Lần này, tôi đi qua 4 giáo điểm vùng đó. Tất cả đều đã có nhà thờ đẹp, có linh mục ở thường xuyên. Bộ mặt hôm nay trẻ trung, rạng rỡ của những giáo điểm này là kết quả của nhiều yếu tố đạo đời. Trong đó có những yếu tố hiện lên như một bài học quý giá cho tôi.
Vài kinh nghiệm tôn giáo
Tất cả các cộng đoàn này đều trong vùng sâu vùng xa. Và thực sự rất xa rất sâu. Ðặc điểm chung của dân ở đây là đơn sơ, bình dị. Ða số kiếm ăn đủ sống. Nhìn lại lịch sử các giáo điểm, tôi thấy không ai ở đó đã bị dụ dỗ theo đạo Chúa cả. Chính tự họ tìm đến đạo Chúa. Theo kể lại, thì ban đầu khoảng 60 năm về trước, một số người lớn, lúc đó là không công giáo, đã tự động viết thư gửi linh mục chánh xứ Rạch Giá, yêu cầu ngài giúp họ theo đạo Công giáo. Họ khao khát một điểm tựa thiêng liêng, một ánh sáng khai phá, một tình thương che chở. Vài tu sĩ đã được sai vào sống giữa họ. Họ học đạo, hiểu đạo, và họ đã tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Ban đầu đối với họ, sinh hoạt tôn giáo thường xuyên và căn bản là cầu nguyện. Tôi có cảm tưởng là cầu nguyện của họ rất hồn nhiên. Qua cầu nguyện, họ có một vài cảm nghiệm thiêng liêng. Những cảm nghiệm đó thuộc về nội tâm. Họ cảm thấy một sự hiện diện nào đó của Ðấng linh thiêng. Ngài đến với họ, tế nhị với họ, nhẹ nhàng với họ, làm quen với họ. Họ cảm thấy mình được yêu thương, kính trọng.
Gặp được một tình thương vô hình nhưng thân mật ấy, đó chính là Tin Mừng lớn lao nhất và quý giá nhất đối với họ. Nó thay đổi cuộc đời của họ.
Nhờ tình thương đó, họ có thêm được nhiều khả năng mới trong nội tâm, thí dụ khả năng tha thứ cho những người mà trước đây họ không thể nào tha thứ được, khả năng nhìn nhận những giới hạn của mình một cách khiêm tốn và bình an, khả năng nhận thấy những thánh giá cuộc đời có giá trị cứu rỗi.
Qua những cảm nghiệm như thế, họ nhìn đức tin là một ân huệ Chúa ban tặng. Họ đón nhận với lòng tri ân cảm tạ. Họ đáp lại bằng những cách cho đi hồn nhiên đơn giản. Ðức tin được tuyên xưng bằng một vài kinh thuộc lòng. Ðức tin được cử hành bằng thói quen quy tụ ngày Chúa nhật, để nghe đọc Kinh Thánh. Ðức tin được sống bằng tinh thần bác ái phục vụ, xây dựng công bình, đoàn kết và bình an trong xóm làng, với những việc nhỏ, khiêm tốn, thường ngày.
Ðạo gắn liền với cuộc sống địa phương. Ðịa phương có cảm tình với đạo. Nhờ vậy mà cộng đoàn được thành hình, được tồn tại và được phát triển. Chính nhiều người ngoài công giáo đã tích cực góp phần vào việc làm nhà thờ cho các cộng đoàn công giáo tại đó.
Giữa đời và đạo có những tương giao tình nghĩa. Bầu khí hài hoà. Cái nhìn thanh thản. Ðón nhận và cho đi một cách khiêm tốn, cởi mở. Mỗi lần cử hành thánh lễ tại các giáo điểm này, tôi đều thấy có nhiều người ngoài công giáo tham dự, đặc biệt là các đại diện nhiều tôn giáo bạn xung quanh. Ðức tin được chia sẻ, được lan ra.
Vài đối chiếu căn bản
Khi đem hình ảnh các cộng đoàn nhỏ vùng sâu vùng xa này đối chiếu với hình ảnh các cộng đoàn công giáo thời Giáo Hội sơ khai được ghi lại trong Tông đồ công vụ, tôi thấy có nhiều nét giống nhau. Những nét giống nhau là: Ðức tin của họ tập trung vào Chúa Giêsu Kitô đã chịu nạn và đã phục sinh. Họ tin Ngài là hy vọng của họ. Họ tin Ngài đem lại cho họ một sự sống cao đẹp và phong phú. Họ học hỏi Lời Ngài. Họ chiêm ngắm gương sáng đời sống và việc làm của Ngài. Họ cầu nguyện với Ngài. Theo gương Ngài và theo Lời Ngài dạy, họ yêu thương nhau. Từ đó bác ái yêu thương trở thành dấu chỉ của người công giáo.
Họ đơn sơ khiêm tốn, sống bao dung, chan hoà tình người. Họ gây được cảm tình với người ngoài công giáo, nhờ đời sống bác ái phục vụ, nhờ những biến đổi sâu sắc nơi chính bản thân họ về mặt lương thiện, công bình, chân thành và tinh thần trách nhiệm, nhất là nhờ những việc chia sẻ của họ với người nghèo, người khốn cùng, người khổ đau, người bị bỏ rơi, người bị loại trừ.
Còn khi đem hình ảnh những cộng đoàn nhỏ này đối chiếu với đường hướng của Công đồng Vatican II và của các huấn thị tân-Phúc-Âm hoá do Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tôi cũng thấy có những nét gần gũi. Ðó là nhấn mạnh đến việc trở về với Ðức Kitô, trở về với việc phục vụ con người, trở về với giới luật yêu thương, là giới luật mới của Ðức Kitô, trở về với đức ái, mà thánh tông đồ Phaolô đã ca ngợi trong 1 Cr 13.
Ngoài ra, nét sau đây cũng được nhận thấy khá rõ, đó là: qua các cộng đoàn nhỏ, Hội Thánh hoạt động như một dấu chỉ và dụng cụ của Nước Trời. Hội Thánh khiêm tốn, không đồng hoá mình với Nước Trời, không coi mình là mục đích của hoạt động truyền giáo. Khi được sai vào một địa phương gọi là ngoại đạo, Hội Thánh nhận biết Chúa đã hiện diện và hoạt động ở đó từ lâu rồi, trong các lương tâm. Hội Thánh là một cộng đoàn được chọn một cách đặc biệt, được trao cho những phương tiện đặc biệt, để nên dấu chỉ và dụng cụ của Nước Trời, giúp cho xã hội, và cùng với xã hội đón nhận Nước Trời một cách sớm hơn và trọn vẹn hơn. Nhưng Hội Thánh chỉ có thể thực hiện sứ mạng đó một cách tốt đẹp, khi toả ra được đức ái phục vụ, khiêm tốn, theo gương Ðức Kitô.
Tại các giáo điểm nhỏ bé này đang thực hiện những chương trình nhỏ bé phục vụ con người, không phân biệt lương giáo, như sân nhà thờ có thể được dùng làm sân cho dân phơi lúa, nhà trẻ, phòng dạy may, phòng sách báo, lớp học tình thương v.v... Các linh mục, tu sĩ đi đến với dân, nhất là dân nghèo, với phong cách một kẻ đi theo Ðức Kitô tìm đến các linh hồn.
Ðúng là đức ái phục vụ đang được cụ thể hoá, đáp ứng đúng nhu cầu địa phương. Từ đó tôi xác tín rằng: Nếu đức tin không được phiên dịch ra đức ái phục vụ một cách cụ thể bằng đúng việc, đúng thời, đúng cách, tại địa phương này, thì Hội Thánh sẽ không thể nào được nhìn nhận là một cộng đoàn có lợi cho dân tộc. Và vì thế sẽ khó có một chỗ đứng được trân trọng trong xã hội đang phát triển này.
Vài dấn thân mới
Tại những cộng đoàn vùng sâu vùng xa này, bên cạnh những điểm tích cực, cũng có nhiều điểm tiêu cực lớn nhỏ. Sự phát triển cộng đoàn cũng gặp nhiều khó khăn. Có loại khó khăn đến từ bên ngoài. Có loại khó khăn mọc lên từ bên trong nội bộ. Có những thách đố mới. Vì thế cần có những dấn thân mới. Dấn thân ưu tiên là đào tạo nhân sự, để có tông đồ giáo dân, có người biết hướng dẫn phát triển cộng đồng, có người biết giáo dục giới trẻ.
Sau chuyến đi thăm các giáo điểm vùng U Minh Thượng, tôi đã ghé thăm khoá đào tạo các ca trưởng tại Ðài Ðức Mẹ Tân Hiệp, mấy căn nhà lưu trú học sinh tại thị tỉnh, dành cho các em vùng xa vùng sâu đến trọ học, mấy lớp hè miễn phí. Tại nhiều nơi, tôi đã nhận thấy những sáng kiến mới, những dấn thân mới có khả năng hỗ trợ cho các giáo điểm nghèo xa xôi.
Thêm vào đó là những cuộc huấn luyện giáo lý viên, nhiều người trong các hội đồng giáo xứ đi tham dự linh thao dài hạn, nhiều nhóm nhỏ được hình thành, cùng nhau cầu nguyện, chầu Mình Thánh Chúa, chia sẻ Lời Chúa và làm các việc từ thiện.
Nhìn chung các giáo điểm, tôi nhận thấy thực rõ hai dấu chỉ của Hội Thánh thời đại hôm nay, một là vai trò của tông đồ giáo dân, hai là vai trò của bác ái phục vụ con người, nhất là giúp cho các tầng lớp túng nghèo, khổ cực biết tự mình vươn lên.
Những cộng đoàn địa phương nào biết tỉnh thức dấn thân theo hai dấu chỉ đó, trong tinh thần hiệp thông chặt chẽ với Ðức Kitô và với Hội Thánh của Người, sẽ là những chứng nhân của hy vọng, một niềm hy vọng vượt quá biên giới trần thế. Hy vọng đó là chính Ðức Kitô. Và vì thế việc huấn luyện nội tâm là quan trọng nhất
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 8/1996
Ghi chú (Web admin): (*) Thiếu trong nguyên bản (?)