1997
Ðể kính nhớ hai nữ tu Têrêsa,
suy nghĩ về khả năng lắng nghe
Một trăm năm trước đây (tháng 9/1897) nữ tu Têrêsa thành Lisieux đã qua đời. Một trăm năm sau đó (tháng 9/1997) nữ tu Têrêsa thành Calcutta đã tạ thế.
Chị Têrêsa thành Lisieux chết hồi 24 tuổi. Mẹ Têrêsa thành Calcutta chết, thọ 87 tuổi. Hai nữ tu này khác nhau về lý lịch, về chân dung, về tính tình. Nhưng cả hai giống nhau ở trái tim. Bởi vì hai trái tim ấy đều bốc lửa tình yêu: Rất mến Chúa và rất thương người.
Khi nhìn tình yêu của chị Têrêsa Lisieux, tôi lại nghĩ tới bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi suy về tính vị tha của lòng nhân ái nơi Mẹ Têrêsa Calcutta, tôi lại liên tưởng đến tính hy sinh của tình yêu nơi chị Têrêsa Lisieux. Như thể hai tình yêu ấy vốn là một về căn bản, chỉ khác nhau về cách diễn tả mà thôi.
Ngắm nhìn hai trái tim ấy, tôi học được nhiều điều. Trong đó, tôi để ý cách riêng đến một yếu tố, mà tôi cho là quan trọng, đó là khả năng lắng nghe.
Lắng nghe Lời Chúa
Theo gương Ðức Mẹ Maria, hai Têrêsa đã rất gắn bó với Lời Chúa. Nghe, đọc và suy gẫm Lời Chúa, hai Têrêsa đã gặp được chính Chúa. Một Thiên Chúa hiện hữu tự thuở đời đời đã đi vào lịch sử nhân loại qua biến cố nhập thể. Nơi Ðức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, tình yêu Thiên Chúa đã được mặc khải, như một tình yêu tự hạ tại hang đá Bêlem, như một tình yêu tự hoà mình vào dân thường tại Nadarét, như một tình yêu tự chọn con đường thánh giá tại Calvariô. Làm như thế để đến với nhân loại, để gần gũi và ở lại với nhân loại, để cứu độ nhân loại, để làm chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức nào.
Qua gặp gỡ một Thiên Chúa như vậy, hai Têrêsa đã nhận ra Thiên Chúa là Tình yêu. Nhận ra, rồi xác định và xác tín. Như một niềm tin. Như một cảm nghiệm do đã đón nhận được tình yêu ấy một cách nhưng không. Càng đón nhận, càng không thể không đáp lại. Ðáp lại bằng cách mến Chúa như người con bé nhỏ, và đáp lại bằng cách yêu thương con người như Chúa đã yêu thương.
Hai Têrêsa coi sự Thiên Chúa Tình yêu đi vào lịch sử nhân loại để yêu thương gần gũi nhân loại là Tin Mừng trọng đại. Từ đó hai Têrêsa hiểu sống Tin Mừng chính là sống tình yêu. Ðó là một giao ước tình yêu của mình với Thiên Chúa và đó cũng là một giao ước tình thương của mình với nhân loại. “Ơn gọi của tôi là tình yêu": Chị Têrêsa Lisieux đã nói như thế. “Tôi muốn là thừa sai bác ái". Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói như vậy. Ðể thực thi tình yêu bác ái, hai nữ tu của chúng ta đã lắng nghe con người, nhất là những người nghèo khổ.
Lắng nghe những con người nghèo khổ
Nghèo khổ ở đây được hiểu về mọi mặt. Hai Têrêsa đã lắng nghe họ bằng tất cả con người của mình, bằng lý trí, nhưng nhất là bằng trái tim. Cũng như xưa Ðức Mẹ Maria, chỉ liếc nhìn sơ qua tình hình tiệc cưới Cana, đã nhận ra được rất lẹ và rất đúng nỗi lòng chủ nhà, hai Têrêsa xem ra cũng có một cảm quan tương tự.
Từ những người nghèo khổ có một tiếng gọi âm thầm phát ra. Tiếng gọi của họ và tiếng gọi của Chúa: “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39). Hai Têrêsa đã nghe được tiếng gọi, đã đến và đã thấy. Họ có nhiều hoàn cảnh đáng cảm thông hơn là đáng kết án. Họ có nhiều vấn đề rất cần được giúp đỡ. Họ có nhiều tiềm năng tốt cần được đánh thức. Họ có nhiều điều tốt mình cần phải học hỏi. Nhất là họ cũng được Chúa yêu thương, nên mình không thể không kính trọng họ.
Trong cái nhìn tổng quát, hai Têrêsa đã nắm bắt được cái chính yếu. Sự hiểu biết đó không do lý luận, phân tích, nhưng do sự thông minh của trái tim, qua một thứ trực giác không diễn tả được bằng những công thức ngôn từ.
Ðiều mà hai nữ tu đã nghe được như một nhu cầu sâu xa nhất, đó là tình liên đới. Liên đới đối với con người chuyển sang liên đới đối với Chúa. Và ngược lại. “Sự gì các con làm cho những kẻ bé mọn nhất chính là làm cho Thầy” (Mt 25,40). Sống tình liên đới ấy, tấm lòng hai Têrêsa có những khoảng rộng cho nhiều người, nhất là đặc biệt mở ra cho những kẻ khốn cùng, những kẻ thất vọng, những kẻ bị loại trừ. Giữa những người ấy lại có một chỗ cho một Ðấng khác, đó là Ðức Kitô. Thành ra khoảng rộng lòng mình coi như không còn chỗ nào cho mình, mà tất cả đều dành cho những người khác và cho Ðấng khác.
Khi thực sự mến Ðức Kitô và yêu thương con người, nhất là những người nghèo khổ, hai Têrêsa mới nghe được những gì sâu thẳm nhất của các thân phận. Bởi vì tuy có biết mới yêu, nhưng có yêu mới hiểu rõ được. Thực ra, có những tiếng nói lặng câm, mà chỉ tình yêu vị tha sâu thẳm mới nghe thấy rõ. Khi nghe rồi, hai Têrêsa đã dấn thân cho tình yêu, coi đó như chia sẻ Tin Mừng.
Lắng nghe Hội Thánh truyền giáo
Ðọc chuyện chị Têrêsa Lisieux và Mẹ Têrêsa Calcutta, người ta thấy hai nữ tu rất thao thức với việc truyền giáo. Ðể chia sẻ Tin Mừng, hai Têrêsa vẫn coi trọng các chương trình và các dự án có liên hệ đến truyền giáo. Nhưng hai Têrêsa lại rất quan tâm đến chiêm niệm. Cần hoạt động trong chiêm niệm. Chiêm niệm hỗ trợ cho hoạt động. Bởi vì hai Têrêsa đã được các tông đồ Chúa cho biết, truyền giáo không phải chủ yếu là chuyển giao những giáo lý, nhưng là chia sẻ một sự sống thiêng liêng. Mình phải có dồi dào sự sống thiêng liêng đó, để có thể chia sẻ. Mình phải là một dụng cụ ngoan ngoãn của tình yêu Thiên Chúa. Mình phải công bố Tin Mừng Tình yêu bằng chính con người và cuộc sống của mình.
Nhìn cuộc sống hai Têrêsa, người ta thấy hai vị đã rất lắng nghe các môn đệ truyền giáo thuở xưa của Ðức Kitô. Các môn đệ ấy đã không là những chiếc búa để đập phá các sai lầm, cũng không là những cái loa để rao bảo cho lớn, nhưng các ngài là những ngọn lửa đốt nóng lòng tin, thắp sáng niềm hy vọng. Theo phong cách đó, Hội Thánh truyền giáo của các ngài đã không muốn như là những toà nhà nhiều tầng, kiên cố, nhưng muốn như là những căn nhà xếp nhẹ nhàng di động. Cũng không muốn như là những hồ ao nuôi cá đẹp, được bao vây bởi những bờ cao ổn định, nhưng muốn như là những dòng sông, nước chảy thật xa, khắp các ngả, nước ngấm thực sâu vào mọi thứ đất. Cũng không muốn như là những hạt ngọc quý cất kỹ trong kho tàng được bảo vệ, nhưng muốn như là những hạt muối, những tấm men, những hạt giống, thích được chôn vùi, thích được hoà mình, thích được len lỏi.
Hai Têrêsa cũng rất biết, trên con đường truyền giáo, các môn đệ Ðức Kitô luôn luôn phải quan tâm phục vụ người nghèo, và chính mình phải sống nghèo. Sống tinh thần nghèo cũng là sống như Ðức Kitô, để đồng cảm với người nghèo, để làm chứng cho Tám Mối phúc, và để chứng minh rằng: Việc truyền giáo chủ yếu phải nhờ vào sức mạnh của tình yêu Ðức Kitô chịu đóng đinh chứ không nhờ vào tiền bạc, quyền lực. “Không có Thầy, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5).
Hai nữ tu của chúng ta, không những đã thương người nghèo, mà còn đã sống tinh thần nghèo. Ðó là một nhắc nhở có tính cách tiên tri gởi đến Hội Thánh truyền giáo hôm nay.
Nhờ sống chan chứa tình thương và tinh thần nghèo khó trong sáng, hai Têrêsa đã biến đời mình thành những chiếc dây tình yêu vị tha, có khả năng nối kết lại những cái khác biệt, cho dù những khác biệt đó là những tín ngưỡng khác nhau, những dân tộc khác nhau và những văn hoá khác nhau.
Nếu có một lúc nào đó, hai Têrêsa nhìn thấy đời mình đã có một số thành công như thế, các vị đó đã nghĩ gì?
Lắng nghe lịch sử đời mình
Hai nữ tu của chúng ta đã luôn khiêm tốn. Chị Têrêsa Lisieux coi mình như đứa nhỏ bé bỏng yếu hèn, luôn cậy nhờ ở ơn Cha. Mẹ Têrêsa Calcutta xưng mình như một chiếc bút chì xấu xí, Chúa dùng để viết. Viết hay là do người viết chứ không do cây viết.
Hai Têrêsa cảm ơn Chúa và cũng nhớ ơn mọi người đã giúp đỡ. Bởi vì sống là đồng hành với những hoàn cảnh nhất định của nơi chốn mình sinh sống. Mình phải nhờ vào đó một cách khiêm tốn. Mình phải rút ra từ đó nhựa sống một cách khôn khéo.
Hai Têrêsa không quan niệm mình được Chúa chọn trong muôn ngàn người, cũng không nghĩ mình được tách rời ra khỏi đám đông và môi trường sống, cũng không hề nghĩ riêng mình được đặt vào một tình trạng thánh thiện. Nhưng được Chúa gọi là được gọi từ những hoàn cảnh cụ thể của xã hội và Hội Thánh và được gọi vào những môi trường cụ thể, để luôn luôn phải trở thành con người mình chưa thành, trong chính môi trường thực tế của mình.
Vì thế, khi đồng hành với thực tế cuộc đời, hai nữ tu của chúng ta đã luôn khiêm tốn bám vào Chúa và căn bản Phúc Âm với lòng trung tín, luôn mở ra về phía thực tại với tinh thần sáng tạo, và luôn sẵn sàng trước những bất ngờ với lòng phó thác.
Trong thinh lặng nội tâm, trong khiêm tốn khó nghèo hồi tâm, trong tỉnh thức cầu nguyện, hai nữ tu nghe được những bước đi của đời mình. Ðã có những chập chững, đã có những ngỡ ngàng, đã có những vấp té, đã có những thương tích, nhưng vẫn bước đi với những bước nhỏ về một tương lai có thể không thiếu bất ngờ. Nhưng bước đi trong tay một Tình yêu mà mình tin tưởng. Và bất cứ bước nào ở bất cứ tuổi nào cũng vẫn được coi như những bước khởi đầu, rất trẻ của một tình yêu luôn mới.
ù
Với những suy nghĩ trên đây, tôi lắng nghe vang vọng của đời sống hai vị nữ tu Têrêsa khắp nơi trên thế giới. Trong chăm chú, tôi nghe được sức mạnh tinh thần của hai Têrêsa là rất lớn. Ðiều đó là có thực. Sự thực này cho phép tôi nghĩ rằng: Hai nữ tu khiêm tốn này có sức đổi mới Hội Thánh và xã hội hơn nhiều đại hội tôn giáo.
Sự thực đó cũng gợi cho tôi nghĩ rằng: Ðang khi đề cao lý trí, thiết tưởng nên nhấn mạnh nhiều hơn đến vai trò của trái tim. Ðang khi giảng dạy đức tin, thiết tưởng nên tập tành đức ái nhiều hơn và cụ thể hơn. Ðang khi lo các chương trình từ thiện, thiết tưởng nên quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo chính mình và nhiều người để biết sống bác ái một cách khiêm tốn, vị tha, hy sinh, nhờ phối hợp chiêm niệm và hoạt động. Ðang khi xây dựng nền văn minh của kinh tế và khoa học, thiết tưởng nên chú ý nhiều hơn đến việc phát triển nền văn minh của tình yêu.
Sau cùng, tôi lắng nghe hai Têrêsa. Và trong thầm lặng tôi đón nhận tâm sự này: “Hai Têrêsa bé nhỏ này chỉ là những giọt tình yêu hy sinh bé nhỏ hoà nhập vào tình yêu hy sinh của Ðức Kitô chịu nạn chịu chết trên thánh giá. Tất cả sức mạnh là ở đó. Mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, cũng làm được như vậy”.
Với tâm sự ấy, tôi lắng nghe lòng tôi, tôi thấy sợ. Bởi vì bé nhỏ là khiêm nhường, là hy sinh, là từ bỏ mình, là nên giống Chúa Giêsu từ Bêlem đến Calvariô. Ðể bé nhỏ như thế trong mọi sự, nhất là trong bác ái, môn đệ Chúa phải có một sự can đảm phi thường, lâu dài, khắp nơi. Tính tự nhiên không muốn có và không dám có sự can đảm khác thường đó.
Thực vậy, trong nhiều trường hợp, làm chứng cho đức tin thì rất can đảm, làm chứng cho bác ái thì bớt can đảm, làm chứng cho đức khiêm nhường thì hết can đảm. Ðáng sợ thực!
Nhưng Chúa Giêsu quả quyết: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,17).
Lạy Chúa, xin thương xót con!
Lạy Chúa, xin xót thương Hội Thánh của con!
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 10/1997