NHÂN KỶ NIỆM 15 NĂM THƯ CHUNG 1980 CỦA HÐGMVN
VÀ 20 NĂM THỤ PHONG GIÁM MỤC (30/4/1975)
Tâm sự về một đường hướng sống đạo
“Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” là một đường hướng sống đạo. Lựa chọn này đã được thực hiện từ lâu tại Hội Thánh Việt Nam, trước khi được viết thành khẩu hiệu trong Thư Chung 1980.
Dư luận chú ý đến cụm từ “giữa lòng dân tộc”, coi đây là điểm cần nhấn mạnh trong giai đoạn mới. Nghĩ như vậy là đúng. Riêng đối với tôi, cũng trong giai đoạn này, điều tôi quan tâm nhiều hơn, đó là việc “sống Phúc Âm”. Tôi nghĩ rằng: Thời thế càng phức tạp, càng phải sống Phúc Âm. Chăm lo Phúc Âm hoá chính mình và cộng đoàn của mình, đó là cách mở rộng ánh sáng, đẩy lùi bóng tối. Hãy sống Phúc Âm thực, hãy sống cho đúng Phúc Âm: Tiếng gọi này thôi thúc tôi, không để tôi yên. Tiếng gọi tha thiết thường xuyên dưới nhiều hình thức.
Sống Phúc Âm
Muốn sống đúng Phúc Âm, tôi cần suy gẫm Phúc Âm, nhất là phải cầu nguyện nhiều. Theo chỉ dẫn tu đức, tôi làm hai việc trên với tâm hồn thực sự nghèo khó, lắng nghe ý Chúa, khát khao được Chúa đổi mới tôi theo ý của Người.
Dần dà, qua nhiều ngày tháng, tôi cảm nghiệm thấy vài điều, mà trước đây tôi chỉ biết trên lý thuyết. Ðó là: Có những Lời Chúa đã thành văn được in trong các sách Kinh Thánh; ngoài ra còn có những Lời Chúa đã thành lửa do chính Chúa rót vào tâm hồn con người bằng nhiều cách khác nhau. Lại có những lần người ta hiểu Lời Chúa như một lý tưởng đẹp, chỉ thế thôi; và có những lần người ta cảm được Lời Chúa như một dòng nước sự sống cứu độ, đồng thời nhận ra chính Ðức Kitô hiện diện đàng sau lời Người.
Trong kinh nghiệm này, Chúa dạy tôi: Sống Phúc Âm không có nghĩa là sống theo một lý tưởng, mà nhất là phải sống với một người, người ấy là Ðức Kitô.
Nhưng trên thực tế, giữa Ðức Kitô và tôi có một khoảng cách mênh mông, cũng như giữa lời Người dạy trong Phúc Âm và cuộc sống tôi có một sự khác biệt bao la sâu thẳm. Vì thế, đối với tôi, sống Phúc Âm là trở về với Ðức Kitô và lời dạy của Người.
Phải nói ngay rằng: Nhận định trên đây không phải là một quan niệm lạnh lùng của lý trí, mà là một chân lý được hiện lên như một đòi hỏi nồng nàn, da diết, khuấy động trái tim đến tất cả con người, tận đáy các vùng sâu tiềm thức và vô thức.
Trên đường trở về, tôi đón nhận được vô số ơn lành. Trong các ơn lành nhận được, có một ơn tôi cho là đặc biệt nhất, đó là ơn cảm được tình Chúa xót thương dành cho riêng mình. Tôi thấy Ðức Kitô là tình yêu Thiên Chúa. Người đã thương yêu tôi. Người đã tha thứ cho tôi. Người đã cứu tôi khỏi bao hiểm nguy và bế tắc. Người như xa mà lại rất gần. Người ẩn mình mà hiện diện. Người đồng hành với tôi, nhẹ nhàng dẫn tôi bước theo kế hoạch cứu độ của Người.
Nhận ra tình Chúa thương xót dành cho mình, đó là điểm tôi cho là quan trọng nhất đem lại ý nghĩa cho mọi bước đi trên suốt hành trình trở về.
Xác tín về tình Chúa dành cho mình, tôi dễ nhận ra những đòi hỏi của tình yêu. Mến Chúa thì phải tin vào Chúa, phải phó thác nơi Người, phải sống theo ý Người, phải sẵn sàng hy sinh vì Người.
Vì yêu nên tin. Bởi tin nên yêu. Tin yêu gây nên thao thức.
Tình yêu thường tỉnh thức. Như chiếc lá rút tỉa mọi chất dinh dưỡng của từng giọt sương, của từng giọt nắng. Cũng thế, kẻ tin yêu Chúa thao thức đón nhận mọi giọt tình yêu Chúa gởi tới mỗi ngày, kể cả qua những tín hiệu mang màu sắc khổ đau.
Tình yêu đòi hợp nhất. Như cành cây cùng chung một sự sống với thân cây. Cũng thế, kẻ tin yêu Chúa thao thức được chia sẻ sự sống Thiên Chúa, muốn sự Người muốn, làm điều Người thích.
Tình yêu hay sáng tạo. Như một chiếc khăn được dệt bằng nhiều sợi chỉ, nhưng có thể mang nhiều kiểu hình, nhiều màu sắc. Cũng thế, người tin yêu Chúa thao thức được dệt đời mình bằng những sáng tạo khả năng mình có và trong hy vọng đẹp lòng Chúa.
Tình yêu sẵn sàng hy sinh. Như một hạt giống sẵn sàng được vùi mình trong đất, để nảy sinh sự sống mới sẽ vươn lên thành cây, trổ hoa, kết trái. Cũng thế, người tin yêu Chúa thao thức được vùi mình vào những từ bỏ âm thầm, để góp phần vào cánh đồng truyền giáo bao la, hy vọng mọc lên những niềm tin yêu mới, làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Những thao thức của niềm tin yêu Chúa giống như sức mạnh của những động cơ, luôn đẩy con người về phía trước. Cái nhìn của niềm tin yêu bao giờ cũng đơn sơ, rất đơn sơ. Nhưng cuộc đời lại chẳng đơn sơ.
Tái Phúc Âm hoá
Xung quanh mình và trong chính mình vẫn còn đầy dẫy những yếu tố phản Phúc Âm, vẫn còn nhiều khuynh hướng sống đạo xa lạ với Phúc Âm.
Xưa, Ðức Kitô đã phải đối phó gay gắt với các thứ đạo đức bệnh hoạn, thiếu quân bình nơi giới gọi là đạo đức Pharisêu, nơi cả những môn đệ coi là nhiệt thành của chính Người, và nơi ma quỷ trong sa mạc đến cám dỗ Người bằng các lý do đạo đức.
Nay, người ta cũng thấy khá rõ nơi nhân loại hiện đại tính kiêu ngạo của ông tổ tông Ađam, tính tham lam của bà tổ tông Evà, tính ghen tương và độc ác của Cain, con trưởng của ông bà tổ tông.
Nay, người ta cũng đang chứng kiến những cách đánh giá nơi nhiều xã hội đời đạo, giống hệt cách đánh giá của những người lãnh đạo đời đạo Do Thái thuở ấy đã kết án tử hình Ðức Giêsu.
Nguy cơ đáng ngại là những hiện tượng như thế vẫn ung dung tồn tại và phát triển ngay trong các cộng đoàn đức tin. Tôi sợ chính trong tôi cũng không thoát được những di căn của các thứ đạo đức khoác áo Phúc Âm, nhưng thiếu thực chất Phúc Âm. Vì thế, trong việc sống Phúc Âm, không những cần để ý đến việc Phúc Âm hoá như đã nói trên, mà còn phải để ý đến việc tái-Phúc-Âm-hoá.
Trong việc tái-Phúc-Âm-hoá, tôi chú trọng nhiều đến ba việc sau đây:
Ðào tạo lại đức tin, sao cho thực sâu, để đức tin trở thành sự gặp gỡ Ðức Kitô, như bàn tay bám chặt lấy Thiên Chúa Tình yêu.
Ðào tạo lại nếp sống tu đức, sao cho quân bình, lành mạnh, để đời sống đạo toả ra được niềm vui, sự đơn giản và tình xót thương của Ðức Kitô.
Ðào tạo lại đức tin, sao cho trong sáng, để qua cuộc sống, con người có đạo giới thiệu được dung mạo dễ thương của Ðức Kitô, hiền lành, khiêm nhường, đầy tình yêu bao dung và có sức phục sinh những gì đã chết.
Trong ba việc trên đây, tôi coi việc thứ ba là ưu tiên. Bởi vì bác ái là đặc điểm cơ bản của Phúc Âm, và khi sống đúng đức ái Phúc Âm, người ta cũng sẽ sống một đức tin trưởng thành, với một nền tu đức lành mạnh, có thực chất Phúc Âm.
Xin đọc kỹ lại Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 15. Chẳng hạn những lời Chúa sau đây: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm được gì”. “Ðây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cũng xin đọc kỹ lại thư thứ I gởi Corintô, đoạn 13. Trong đó, thánh Phalô đã viết: “Dù tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, nếu tôi không có đức bác ái thì tôi chỉ là người khua chiêng gõ trống. Dù tôi nói tiên tri, dù tôi thấu suốt mọi mầu nhiệm cùng mọi khoa học, hay dù tôi có đức tin mạnh mẽ khiến được núi non di chuyển, nếu tôi không có đức bác ái, thì tôi chỉ là hư vô. Dù tôi phân phát mọi của tôi cho người nghèo, dù tôi hiến thân tôi cho lửa thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, thì những hy sinh ấy cũng trở thành vô ích.
Người có đức bác ái thì nhẫn nại, nhân từ, không ghen tỵ, không khoe khoang, không kiêu kỳ, không tham lam, không tìm tư lợi, không giận dữ, không mưu mô gian ác, không vui khi thấy sự bất công, chỉ vui khi thấy sự thật.
Người có đức bác ái tha thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, chịu đựng mọi sự”.
Việc tái-Phúc-Âm-hoá và Phúc-Âm-hoá tạo nên trong tôi một bầu khí nội tâm luôn quy hướng về Ðức Kitô là tình yêu Thiên Chúa mạc khải và cứu độ. Khi làm mục vụ giữa lòng dân tộc, bầu khí nội tâm ấy cho tôi một sức mạnh đồng hành, xuất phát từ chính Ðức Kitô.
Trong lòng Dân Tộc
Dân tộc tôi là đồng bào xa gần của tôi. Cụ thể là ông Hai, bà Ba, anh Tư, chị Năm vv... Họ là những người trong họ đạo của tôi và ngoài cộng đoàn của tôi. Họ là những người như tôi. Họ mang một dòng máu như tôi. Chính trong tôi có dân tộc tôi. Nơi họ cũng như trong tôi có những khát vọng cần được cảm thông, có những vết thương tâm hồn cần được băng bó, có những hy vọng chờ được đỡ nâng, có những thành kiến cần được xoá bỏ, có những thiện chí cần được ghi nhận, có những sự thực cần được trọng kính. Với dòng máu dân tộc, tôi hiểu đồng bào tôi, tôi thương đồng bào tôi. Và với tình yêu của Ðức Kitô trong tôi, tôi càng hiểu thấm thía đồng bào tôi, tôi càng mến thương và biết ơn dân tộc tôi.
Trong tình yêu thương và tự hào dân tộc, tôi cũng đã nhìn thấy bao phức tạp.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi mang máu anh hùng. Nhưng bao người quảng đại mà cũng dễ hẹp hòi. Họ khư khư bám vào một thoáng lịch sử, một mảnh quá khứ, ướp thơm lại, coi đó là lý tưởng đời đời bền vững.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có óc thông minh. Nhưng bao người nói lý, mà chỉ sống theo cảm tính. Có những cảm xúc tập thể thật vô lý, hầu như vô thức, nhưng rất mạnh, do kết tinh lâu đời của những răn đe, những hứa hẹn của tập tục, văn hoá, tín ngưỡng.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi rất tài tình trong việc đấu tranh cho tự do. Nhưng bao người nói tự do, mà lại tự trói mình và trói người xung quanh. Trói bằng quyền lực, bằng tiền bạc, bằng dư luận, bằng ích kỷ, ghen tương.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có nhiều thành tích chống giặc ngoại. Nhưng bao người nói bài ngoại, mà lại dễ dàng sùng ngoại, hướng ngoại. Có những đánh giá và thái độ còn nặng ảnh hưởng của những trăm năm nô lệ và của những khuynh hướng thực dụng.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có nhiều công trình thống nhất. Nhưng bao người nói đoàn kết, mà lại rất là cục bộ. Có những tính toán vụn vặt vun quén cho lợi ích tư riêng của cá nhân và nhóm này gốc nọ.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có nhiều tín ngưỡng. Nhưng bao người rất sùng đạo, mà lại dễ mê tín. Có những cuồng tín, có những tin tưởng chỉ do những tâm trạng tâm lý xã hội gây nên, chứ không phải đức tin.
Trong lòng dân tộc, tôi còn nhìn nhiều phức tạp khác. Nhưng với tình yêu cứu độ của Ðức Kitô, tôi không ngỡ ngàng. Ðức Kitô không hề tách rời con người ra khỏi thân phận của họ. Mỗi người có những hoàn cảnh riêng và có những cái nhìn riêng. Mỗi giai đoạn của lịch sử dân tộc cũng vậy. Dù cá nhân, dù tập thể có những lỗi lầm, Ðức Kitô vốn nói với họ: “Tôi đến không phải để kết án, nhưng để cứu độ”. Thực sự, biết bao người đã và đang phấn đấu cho gia đình và dân tộc được nên tốt hơn. Hiện nay tôi thấy rất nhiều người đang âm thầm sống đạo đức một cách phi thường, ngay giữa những hoàn cảnh có đủ thứ khó khăn chồng chất. Nếu Chúa cân đo công phúc con người theo những cố gắng của mỗi người, để hướng cái tâm mình về sự thiện, thì chắc chắn những người Việt Nam được cứu độ sẽ vô số kể.
Khi đã có chút kinh nghiệm về tình yêu cứu độ, mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi cá nhân tôi, tôi hiểu được phần nào kế hoạch cứu độ của Người dành cho dân tộc tôi. Nhờ đó, tôi thấy rằng: “Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc” là một mời gọi tôi và Hội Thánh Việt Nam của tôi hãy ưu tiên trở về với Ðức Kitô và Phúc Âm của Người, đó là cách tốt nhất để cứu độ và thăng tiến dân tộc tôi, nhất là trong những thời điểm khó khăn phức tạp. Ðức Kitô hiện diện trong lịch sử. Hãy nhạy cảm trước những hoạt động tình yêu cứu độ của Người, ta sẽ thấy sức mạnh phục sinh của Người là hết sức lạ lùng.
ù
Trong tông thư của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi Hội Thánh toàn cầu về việc chuẩn bị mừng kỷ niệm trọng thể biến cố Ðức Giêsu Kitô giáng trần được 2000 năm, Ðức Thánh Cha đã kêu gọi mọi người, hãy xét xem mình có sống xa rời Phúc Âm không, xa rời ở điểm nào và tới mức nào. Thiết tưởng lời kêu gọi của Ðức Thánh Cha nên được chúng ta đón nhận một cách nghiêm túc hơn ai hết, bởi vì chúng ta đã chọn cho mình một định hướng gắn bó với Phúc Âm trong việc gắn bó với dân tộc.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 3/1995