TÂN PHÚC ÂM HOÁ
Tôi thú nhận
Trong mọi thánh lễ, dù là lễ tạ ơn, việc đầu tiên tôi làm là thú nhận mình tội lỗi. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.
Với thái độ thú nhận này, tôi coi mình như người thu thuế đến nhà thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14). Ông này không dám tự hào như người đạo đức biệt phái kể công kể phúc, coi mình hơn kẻ khác. Trái lại ông cúi mình đấm ngực, thú nhận mình hèn kém, hết lòng xin Chúa xót thương.
Mặc dầu tôi đã phạm nhiều tội, nhưng tôi nhấn mạnh hơn đến sự “tôi đã phạm tội nhiều”.
Nói “phạm tội nhiều” là nói tới tính chất tội lỗi, chứ không nói tới số lượng tội lỗi. Bởi vì sẽ rất mệt và cũng sẽ chẳng mấy ích lợi, nếu khi thống hối, tôi phải kể ra tỉ mỉ từng loại tội tôi phạm, và đếm đủ các lần tôi sai lỗi.
Trong đạo đức, số lượng việc làm đâu có quan trọng bằng tính chất việc làm. Nếu trong một ngày, tôi được rước lễ hai lần, và mỗi lần cả chục bánh thánh, nhưng với một tâm hồn nguội lạnh, thì tôi đâu có được ơn bằng một người vì hoàn cảnh chỉ được rước nửa bánh thánh một lần trong cả một năm, nhưng với tâm hồn hết sức sốt sắng. Ðừng đưa môn toán vào đạo đức, kẻo lầm to.
Người trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa đã phạm nhiều tội. Nhưng ông khiêm tốn biết mình, nên đã đón nhận được ơn cứu độ. Còn các vị đạo đức như các biệt phái, các kỳ lão, các thầy tư tế có vẻ không phạm nhiều tội. Cho dù họ chỉ phạm một tội, đó là tham gia vào việc giết Chúa Giêsu, do tinh thần đạo đức ác độc, kiêu căng, cố chấp, thì chỉ với chừng ấy thôi họ cũng đã phạm tội rất nhiều.
Còn tôi thì sao? Có thể là tôi không phạm nhiều tội. Nhưng đừng vì thế mà tôi vội an tâm. Bởi vì nếu tôi thường xuyên mang sẵn một thái độ nội tâm xấu, thì chỉ với một vài tội do tư tưởng, lời nói, việc làm và thiếu sót, tôi cũng đã phạm tội nhiều, gây khốn khổ muôn vàn cho tôi và cho người khác.
Thái độ nội tâm là rất quan trọng. Trong mọi thái độ nội tâm nguy hại, mà tôi cần để ý hơn cả trong thống hối, thiết tưởng phải nghĩ đến đến “thái độ nội tâm đầy chật cái tôi”. Thái độ này không tự xuất hiện, không tự nói ra, không tự thú nhận. Nhưng nó được phát hiện qua các phản ứng. Lần này chỉ xin nêu lên 2 phản ứng mà thôi.
1. Phản ứng tự mãn
Người tự mãn coi mình là đầy đủ. Họ hả hê với cái mình có. Họ hả hê cả khi thấy người khác lầm lỗi hoặc gặp phải rủi ro, cơ cực.
Ðối với kẻ đạo đức tự mãn, thì tội lỗi là chuyện của kẻ khác, đổi mới là chuyện không liên quan đến mình, và cứu độ chỉ là chuyện chung chung.
Phúc Âm nói đến nhiều loại người tự mãn, như vị tư tế, thầy thông luật, người biệt phái, kẻ phú hộ, ngài kỳ lão. (x. Mt 21,23,; Lc12).
Phúc Âm cũng cho thấy, đang khi Chúa Giêsu tỏ ra rất nhân từ với những người tội lỗi yếu đuối, Ngài lại tỏ ra rất công bình nghiêm khắc với những người tự mãn, kiêu căng.
Chính Ngài có bao giờ tỏ ra tự mãn đâu. Mặc dù Ngài là Con Chúa Cha, nhưng Ngài không hề đấu tranh để được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại Ngài tự hạ, mặc lấy bản tính con người, chia sẻ trọn vẹn thân phận con người hèn yếu, ngoại trừ tội lỗi.
Trong sa mạc, Satan xúi Ðức Kitô phô trương quyền lực để làm sáng danh Thiên Chúa. Ðức Kitô đã quyết liệt chối từ. Bởi vì có một điều Satan đã không nói ra, đó là sự phô trương dễ đưa tới tự mãn, và tự mãn chính là một địch thù phá phách vinh quang Thiên Chúa.
Tôi mới đọc cuốn Clérocratie dans l'Eglise de France, của Jean-Claude Didelot, 1991, cuốn Misérable Eglise của Henri Guillemin, 1992, và cuốn Lettre aux Evêques của André Frossard, 1992. Cả ba tác giả đều là những giáo dân trí thức giữ đạo có khuynh hướng bảo thủ. Nội dung sách là những phê phán từ cá nhân vị này vị nọ, đến cơ chế Hội Thánh Pháp. Ít vị ngọt, mà nhiều vị đắng. Cố nuốt xong mấy trăm trang đó, tôi tự nhiên tiên đoán, rồi đây sẽ tới thời, với trào lưu tự do dân chủ, các sách loại đó cũng sẽ xuất hiện tại Việt Nam này.
Ngay hiện tại, nhiều nơi trong các cộng đoàn Việt Nam, cũng đang phổ biến nhiều loại báo “miệng”, sách “miệng”, bàn tán đủ các thứ “chuyện người ta” trong đạo. Những thứ sách báo loại này, nếu không đem lại cho chúng ta những sự thực mới, cũng có thể giúp thanh luyện tâm hồn chúng ta. Những đắng cay của thực tế lòng người phức tạp sẽ nạo vét lòng ta cho bớt đi sự tự mãn, để có thể đón nhận được nhiều hơn dòng ơn thánh Chúa, để sau đó chảy sâu hơn vào các linh hồn.
Mới rồi, tôi đi làm lễ Thêm Sức ở Hoà Giang, thuộc huyện Hà Tiên. Lúc đó gần trưa, xe tôi đi về hướng Kiên Lương. Ðường xấu và vắng giữa vùng quê dân cư thưa thớt. Tôi thấy đàng xa hai em bé cắp cặp lững thững đi. Tới gần, tôi cho xe dừng lại, mời hai em bé quá giang.
Ðó là hai chị em đi học, đứa chị 12 tuổi, đứa em trai hơn 10 tuổi. Trên xe, chúng tôi hỏi chuyện hai em:
- Trường học cách đây bao xa?
- Thưa 10 cây số.
- Ba các cháu làm gì?
- Thưa ba chết lâu rồi.
- Má các cháu làm gì?
- Thưa má nằm bệnh.
- Ai nuôi các cháu?
- Thưa bà ngoại và chị hai.
Ngày hôm sau, trên đường về, tôi ráng tìm nhà hai đứa bé. Xe tôi dừng lại đúng trước nhà chúng. Thực là thê thảm. Trong căn nhà tranh trống trải, một người mẹ mắc bệnh ung thư, da bọc xương, nằm chờ chết trên một chiếc giường trải tấm chiếu rách. Một bà ngoại đang ngồi chắp nối các mảnh vải vụn, khâu lại để làm áo quần cho mấy cháu, một chị hai đi làm mướn, ngày có tiền, ngày không. Họ rất nghèo, làng xóm cũng rất nghèo. Họ đùm bọc lấy nhau. Họ lo cho nhau. Họ chia sẻ cho nhau tình thương và hy vọng. Họ chẳng có gì cho tôi. Nhưng tôi đã lãnh nhận từ họ rất nhiều. Tôi không còn gì để tự mãn cả.
Ðối với tôi, cảnh nghèo khổ của đồng bào là một lá thư sống động Chúa gửi cho tôi và Hội Thánh của tôi. Cảnh nghèo khổ cụ thể như thế đó. Chúa gọi từ đó. Chúa đến qua đó. Chúa chờ ở đó. Thao thức của Chúa chất đống tại đó. Toà án phán xét của Chúa đặt tại đó. Cứ thử ghìm mình vào cảnh đó như những người nghèo khổ đang sống, ta sẽ thấy Tám Mối phúc ở đâu?
Bao lâu những cảnh nghèo khổ và những người yếu đuối xung quanh chúng ta chưa nhận thấy Hội Thánh Công Giáo là Tin Mừng cứu độ thiết thực cho họ, và bao lâu chúng ta chỉ hướng về họ chứ không chia sẻ phần nào thân phận cuộc đời của họ như Ðức Kitô, thì bấy lâu sự tự mãn của chúng ta về bất cứ thành công nào, cũng phải kể là một phản ứng còn nhiều chất “Tôi”, chứ không đúng tinh thần Ðức Kitô, Ðấng cứu chuộc loài người.
Rất mừng là số người mang tinh thần Ðức Kitô dấn thân phục vụ người nghèo nay đang tăng. Và số người hiền lành khiêm nhường theo gương Ðức Kitô nay cũng rất đông. Loạt bài nói về “Les Héros du Coeur”, đăng trên Paris-Match, 7 Janvier 1993 báo hiệu một mùa xuân đẹp cho Nước Trời đang đến.
Riêng năm vừa qua, 1992, đã loé sáng nhiều tấm gương cỡ lớn. Như việc các Hội Ðồng Giám Mục Canada và Hoa Kỳ công khai nhìn nhận công cuộc truyền giáo đi đôi với việc khám phá Mỹ Châu cách đây 500 năm đã phạm nhiều lỗi lầm (Documentation Catholique, số 2044, Février, 1992 và số 2059, Nov. 1992).
Rồi việc Ðức Tổng Giám mục giáo phận Tarragone, Chủ-tịch Uỷ-ban Giám mục của Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, phụ trách các quan hệ liên tôn, đã công khai nhìn nhận việc trục xuất các người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha năm 1492 là một lỗi lầm lớn. (Documentation Catholique, số 2049, Mai, 1992).
Rồi đặc biệt là việc Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngày 31-10-1992 chính thức nhìn nhận việc Toà Thánh kết án nhà khoa học Galilée ngày 22-6-1633 là một lầm lỗi đau đớn (La vie, số 2471, Janvier, 1993).
Rồi văn kiện “Pastores dabo vobis” do Ðức Gioan Phaolô II công bố ngày 25-3-1992 cho thấy Toà Thánh không tự mãn với nền đào tạo giáo sĩ vốn có từ lâu, nhưng nay thao thức đi tìm một nền đào tạo mới thích hợp và hữu hiệu hơn cho kỷ nguyên mới và cho từng địa phương.
Nhận sai lầm, thiếu sót, thiếu thốn là một nhận thức đẹp. Nỗ lực học hỏi thêm, nghiên cứu thêm, tự đào tạo thêm và dấn thân thêm là một việc rất tốt, khác với tự mãn là một phản ứng xấu. Tuy nhiên, có một phản ứng khác còn xấu hơn nhiều, đó là phản ứng loại trừ.
2. Phản ứng loại trừ
Ðọc Phúc Âm, tôi thấy các người tự coi mình là đạo đức có thói quen loại trừ những ai, mà họ cho là không đạo đức như họ. Ðối với họ, chính việc loại trừ như thế là dấu chỉ đạo đức.
Những kẻ bị họ loại trừ vì lý do đạo đức là số đông nhân loại: Những dân ngoại đạo, những người thu thuế, những bệnh nhân phong cùi, những kẻ không kiêng việc ngày Sabbat, những đĩ điếm. Nói chung, tất cả những ai bị họ kết án là tội lỗi, đều phải loại trừ. Họ loại trừ cả những ai không chịu theo chủ trương loại trừ như họ. Do đó, Chúa Giêsu cũng bị loại trừ (x. Mt 9,11; Mc 2,16; Lc 5,30). Loại trừ là khinh khi, là xa tránh, là không ngồi chung với họ, là không vào nhà họ, là không cho họ vào nhà mình, là không cộng tác với họ.
Dần dà, thái độ loại trừ trở thành một đặc điểm tôn giáo thời đó. Ðặc điểm ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, dưới các hình thức, có lúc nhẹ nhàng, có lúc thô bạo. Lịch sử cho thấy, ba tôn giáo cùng chung gốc rễ Abraham là Do Thái giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, đã có những thời loại trừ nhau một cách quyết liệt, nhưng bất thành, để lại cho nhau những vết thương tâm lý đến nay vẫn chưa lành. Rồi Thiên Chúa giáo lại chia ra nhiều khối lớn khác nhau: Công giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh giáo. Và nay lại xuất hiện từng ngàn khối nhỏ, kể cả các giáo phái. Các khối lớn nhỏ tuy không chủ trương loại trừ nhau, nhưng vẫn khó tránh được ảnh hưởng não trạng loại trừ.
Ðang khi đó, trong lãnh vực chính trị, kinh tế, dân tộc, văn hoá, não trạng loại trừ nhau hầu như không lúc nào an nghỉ. Ðọc cuốn Exclus, Jésus aussi, 1989, và tập Une société affrontée à l'exclusion, 1992, tôi thấy cảnh loại trừ nhau đang lan tràn cùng nhịp độ với đà phát triển của chủ nghĩa cá nhân. Nó đang chiếm một phần quan trọng trong các bản tin hằng ngày. Thực đáng buồn, thực đáng ngại.
Trước một tình hình như thế, cách sống đạo của chúng ta và của các cộng đoàn đức tin chúng ta được huấn luyện theo hướng nào? Hướng chủ trương loại trừ theo gương các tư tế và biệt phái, hay hướng bao dung theo gương Ðức Kitô, Ðấng ưu tiên đến với những người tội lỗi, yếu đuối, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ.
Trình độ nhận thức con người thời nay rất bén nhạy trước những phản ứng loại trừ theo tiêu chuẩn: Giàu thì sang, nghèo thì hèn, và theo tiêu chuẩn yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Cách đây mấy tuần, các báo chí Pháp đồng loạt loan tin và bình luận chuyện một đứa con bị chính người mẹ đẻ của mình hành hạ, với ý muốn loại trừ. David Bisson là con trai của một phụ nữ không chồng. Sau khi cô này kết hôn với một chàng trai đàng hoàng và có con với bà, bà bắt đầu hành hạ đứa con đầu lòng. David bị xiềng xích từng tháng trong phòng tắm, bị trói ở chân giường từng đêm, bị bỏ đói có khi cả một ngày, và sau cùng, bị nhốt trong phòng nhỏ tối tăm suốt 12 tháng. David không được học hành, không được tiếp xúc với ai. Có một lúc cửa phòng giam chưa khoá, David chạy trốn được. Người ta báo động. Cảnh sát đến bắt hai vợ chồng. Trước toà David xin tha cho mẹ. Nhưng bà không tỏ dấu ăn năn, nên bị tống giam. David nhờ người viết thư cho Tổng Trưởng Tư Pháp xin ân xá cho mẹ mình. Bà được tha, và biến mất. (La vie, 3, Février, 1993. Và Paris Match, 14, Janvier, 1993).
Ðọc xong chuyện thương tâm này, tôi tự nhiên nghĩ tới các con cái Hội Thánh. Tôi tự hỏi: Có nơi nào con cái Hội Thánh bị chính những người của Hội Thánh nhốt vào một nếp sống khép kín thở ra hít vào tinh thần nghi kỵ, hận thù không? Có nơi nào con cái Hội Thánh bị chính những người của Hội Thánh xiềng xích vào những tệ đoan, những não trạng xấu và những thói quen lỗi thời không? Có nơi nào con cái Hội Thánh bị chính những người của Hội Thánh bỏ rơi, bỏ đói về mặt tinh thần không?
Ðang khi bao thế lực Satan đang nỗ lực loại trừ con cái Hội Thánh và chính Hội Thánh, thì trong nội bộ Hội Thánh, nhiều nơi lại có những toan tính loại trừ nhau. Tất nhiên phải biện minh là vì lý do đạo đức. Nhưng hãy hỏi Chúa Giêsu Ðấng chăn chiên lành, xem Ngài có dạy như thế không? Ngài có làm gương như thế không? Ngài có sai môn đệ đi để làm những việc như thế không? Hay đây chỉ là phản ứng của một thái độ nội tâm chất đầy cái tôi hẹp hòi?
Trong đầu tháng hai này, tôi đi thăm một số họ đạo thuộc tỉnh Kiên Giang. Dịp này, tôi nhận thấy nhiều giáo xứ có những điểm bác ái đáng khen, khác hẳn những nét loại trừ. Có nơi mở rộng nghĩa trang họ đạo, dành một phần cho những ai ngoài công giáo không có đất chôn, muốn được chôn cất trong nghĩa trang họ đạo. Có nơi dành đủ mọi phương tiện, như xe tang, tiền của giúp cho những ai ngoài công giáo muốn nhờ, để tổ chức an táng. Có nơi thành lập Hội Hiếu, đón nhận người giáo cũng như người lương, với mục đích bảo đảm cho những người nghèo bất luận giáo hay lương, được có phúng điếu và lễ tang đàng hoàng, trong dịp tiễn biệt người thân về bên kia thế giới. Có nơi làm cầu, đào giếng nước ngọt, nhưng ưu tiên dành cho những xóm đồng bào ngoài công giáo. Có nơi tổ chức lễ cưới, lễ Thêm Sức và Rước lễ lần đầu, Rước lễ Bao Ðồng với những quan tâm tế nhị đặc biệt đối với những người túng thiếu, không để có cách biệt đối xử giữa giầu và nghèo, nhất là để tránh tuyệt đối thái độ loại trừ áp dụng cho kẻ nghèo. Tại một giáo điểm vùng sâu, linh mục phụ trách lo học bổng cho 25 em đi trung học và 5 em theo đại học không phân biệt lương giáo. Tại một giáo điểm khác vùng nông thôn, cha sở và họ đạo tập trung công sức vào việc nâng cấp các căn nhà nghèo của các hộ quá túng thiếu, lần lượt theo thứ tự nhu cầu và khả năng. Tại nhiều nơi việc dạy giáo lý đang nhấn mạnh đến các đức tính nhân bản, nhất là tình liên đới. Sống đạo là làm chứng.
Với những việc như trên bầu khí họ đạo trở nên huynh đệ đằm thắm hơn, mối liên hệ giữa cộng đoàn công giáo và đồng bào ngoài công giáo được đổi mới hơn với nhiều tình nghĩa.
ù
Những chia sẻ trên đây có mục đích giúp nhau đi vào con đường thống hối của Mùa Chay. Chỉ là chút gợi ý không phải để ray rứt với chính mình, cho bằng để dọn lòng đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Với tấm lòng khiêm cung tan nát, ta nhìn lên Chúa. Và ta sẽ thấy ta đã phạm tội nhiều, do thái độ nội tâm còn nặng cái tôi hời hợt ích kỷ, chưa sạch chất tự mãn, chưa sạch tính hay loại trừ, chưa đủ cả đến những đức tính nhân bản thô sơ nhất, và biết đâu, đó là một cái tôi sặc sụa mùi vong thân.
Lạy Chúa, con còn xa mẫu gương của Chúa quá! Xin Chúa thương xót con.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 3/1993