CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ
“Ðừng lo chiếm hữu vàng bạc...”
(Mt 10,9)
Sau khi đã nói cho tông đồ biết họ được sai đến đâu, được sai đi để làm gì và tương quan với người mình sẽ đến phải thế nào, Chúa đã lưu ý họ về hành trang lên đường. Ngài nói: “Chúng con đừng lo chiếm hữu vàng bạc, hay tiền lẻ giắt lưng, cũng đừng mang bị, hai áo, giày dép, gậy gộc” (Mt 10,9). Cứ theo lời nhắn nhủ trên đây, thì kẻ được sai đi phải là con người trút bỏ tối đa, hành trang của họ phải rất nhẹ nhàng.
Bước đi con người thường nặng về hành trang vật chất, mà cũng nặng về hành trang tâm hồn. Khi suy Lời Chúa nói “Nolite possidere”, tôi thấy Chúa nhắm vào việc chiếm hữu (possidere) hơn là việc có. Chúa nhắm vào thái độ và tinh thần chiếm hữu đồ vật hơn là sự kiện mang theo đồ vật. Thái độ và tinh thần chiếm hữu đó phải được coi là một thứ hành trang cần phải trút bỏ, vì nó cồng kềnh, vì nó tai hại.
Ðược hiểu như thế, ta nên tìm chi tiết những thứ chiếm hữu mà con người tông đồ hôm nay cần phải xa tránh.
Chiếm hữu thứ nhất ta cần xa tránh là chiếm hữu tôn giáo
Chiếm hữu tôn giáo được hiểu đại khái như một sự lạm dụng về tôn giáo. Sự chiếm hữu này được phát hiện dưới nhiều hình thức. Sau đây là một số điển hình.
Thí dụ thói quen thẩm định sự lan rộng của Nước Trời căn cứ vào những thành công vẻ vang bề ngoài của mình và của Giáo Hội mình. Thẩm định như thế là một sự chiếm đoạt một sự không phải của mình. Thành công vẻ vang bề ngoài của tông đồ và của Giáo Hội không bao giờ là dấu chỉ chắc chắn của sự lan rộng Nước Trời. Có những thành công vẻ vang của tông đồ và của Giáo Hội đã gây nên thất bại cho Nước Trời, nên thành công như thế đã trở thành thành công đau đớn. Trái lại có những thất bại đau đớn của tông đồ và của Giáo Hội đã gây nên thành công cho Nước Trời, nên thất bại đó đáng gọi là thất bại vẻ vang. Chỗ đứng vẻ vang của một Giáo Hội trong xã hội vào một thời nào đó chắc đâu đã là một dấu chỉ của một sự phồn vinh lành mạnh của Nước Trời. Trái lại, sự cúi mình của đạo Chúa trong một hoàn cảnh nào đó đâu có phải là một sự suy thoái của Nước Trời. Nếu thế, thì người tông đồ nên trút bỏ cái thói quen đồng hoá sự thành công bề ngoài với sự thành công bên trong. Thực sự nhiều khi phải nói: Cái bất hạnh cho Giáo Hội chính là vì Giáo Hội “thành công”, những thứ thành công gây ra ảo tưởng và tách dần xa con đường thánh giá dẫn về sự cứu rỗi.
Rồi thí dụ thói quen đóng khung tôn giáo vào khuôn khổ chặt chẽ của những luật lệ và tục lệ. Không thiếu người vẫn còn mang nặng tính cách Pharisêu, coi đạo chỉ là lề luật, giữ đạo chỉ là giữ trọn lề luật một cách tỉ mỉ khắt khe về hình thức hơn về tinh thần. Quan niệm đó không đúng, sự giữ lề luật chỉ là một cách chứng tỏ lòng mến chứ không tất nhiên là lòng mến, đang khi đạo là cuộc trao đổi tình yêu với Chúa. Ðàng khác có những luật lệ bó buộc người ta, nếu xét kỹ thì chẳng phải của Phúc Âm, cũng chẳng phải của Giáo Hội, cũng chẳng vì ích chung. Dồn đạo vào những khung luật như thế là chiếm hữu sai trái, vì thứ khung đó là của mình chứ không phải của Chúa.
Rồi thí dụ cái thói khăng khăng quả quyết chỉ có đường lối đạo đức của mình mới là đạo đức thiệt, chỉ có mình và những người như mình mới là nhân tố Chúa dùng để cải tạo xã hội, chỉ có thứ hình ảnh Chúa do mình vẽ ra mới thực sự đúng với Phúc Âm. Quả quyết như thế là một sự chiếm đoạt. Vì sự phân chia ranh giới như vậy không phải quyền của mình. Hầu hết các thầy cả đạo cũ thời Chúa Giêsu đều vào hạng này. Họ quan niệm Chúa cứu thế phải y hệt hình ảnh họ nghĩ về Ngài. Nên khi Chúa đến không trong hình ảnh đó, họ đã không nhận, lại còn lên án. Họ quan niệm sự cứu rỗi phải qua con đường cũ quen thuộc của họ, nên khi Chúa Thánh Thần đến làm bung ra các hình thức cơ cấu cũ, mở đường cho một lối hành đạo mới, thì họ hoảng hốt ngỡ ngàng. Ta nên khiêm tốn nhận rằng: Chúa vẫn luôn luôn làm việc trong lịch sử nhân loại, và số người được cứu rỗi không giống danh sách ghi trên sổ rửa tội để ở các nhà thờ.
Rồi thí dụ cái tính tự phụ coi mình là người công chính, và sự công chính đó là điều kiện để vào Nước Trời. Tự phụ như thế là chiếm đoạt, vì không phải quyền mình được xét đoán mình là công chính, đàng khác Nước Trời chính là một ơn huệ Chúa ban, người Pharisêu trong Phúc Âm khi con người đã tự nhận mình là người công chính. Tự coi mình là công chính thì đâu có gì cần được tha thứ, có gì phải xấu hổ với lương tâm, trái lại còn cho như mình đáng được Nước Trời. Thái độ tự cho mình đáng được Nước Trời, đang khi Nước Trời là một ân huệ, quả là một hành vi chiếm hữu, mặc dầu vô hiệu.
Rồi thí dụ việc tự ý thay đổi giáo lý, luật đạo, phụng vụ, hoặc mưu đồ tách rời giáo hội địa phương ra khỏi Ðấng kế vị thánh Phêrô, hoặc cố tình hoạt động như thể mình không có bổn phận phục tùng Giáo quyền nào hết, hoặc lợi dụng chức vụ linh mục hay đạo giáo để làm những việc chỉ vì lợi ích tư riêng. Ðó cũng là những thứ chiếm hữu tôn giáo cần phải tránh. Linh mục là người cộng tác của hàng Giám mục, chức thánh là một sự tham dự vào chức linh mục thượng phẩm duy nhất của Chúa Kitô, quyền linh mục đã được qui định bởi Ðấng Bản quyền. Mọi sự vượt quá đều là chiếm đoạt sai trái.
Rồi thí dụ sự lạm dụng thần quyền để gây khó khăn cho tín hữu, ưa xiết lại chứ không thích cởi gỡ, không dễ dàng ban các Bí tích cho những người có đủ điều kiện, dùng toà giảng để cay cú với cá nhân này tập thể nọ, dùng Lời Chúa để nguyền rủa những kẻ đụng chạm tới mình. Làm thế cũng là chiếm hữu tôn giáo. Thực sự cũng phải nhận rằng Phúc Âm thì nhẹ, nhưng đạo cụ thể ở một vài nơi thì quá nặng. Nặng có phải tại ta không?
Chiếm hữu thứ hai ta cần xa tránh là chiếm hữu con chiên
Người ta chỉ chiếm hữu sự vật, chứ con người thì không ai được chiếm hữu. Tuy nhiên trong thực tế linh mục vẫn có thể chiếm hữu con chiên bằng nhiều cách.
Có sự chiếm hữu con chiên khi ta để tình cảm không mấy chính đáng của ta chinh phục họ về mục đích ích kỷ. Thay vì coi họ như những tấm bánh trắng ta phải truyền phép để họ trở nên Chúa Kitô và dâng lên Thiên Chúa, thì ta lại giữ lại cho riêng ta. Ta như kẻ ăn trộm, chiếm hữu sự vật mà chủ đã trao cho ta coi sóc. Ta như kẻ bất trung, lạm dụng sự tín nhiệm của Chúa và của các linh hồn mà tìm hưởng thụ.
Cũng có sự chiếm hữu con chiên, khi ta đối xử với họ như đối xử với sự vật vô nhân vị. Coi người ta như tôi tớ, coi mình như ông chủ toàn quyền: thái độ hống hách độc tài đó là một thứ chiếm hữu quá lỗi thời và rất nguy hại.
Ngoài ra thái độ chiếm hữu con chiên còn có thể xảy ra, khi ta không muốn nhường quyền chăm sóc đoàn chiên cho những tông đồ khác được sai đến chia sẻ trách nhiệm với ta. Ta buồn khi họ thành công. Ta vui khi họ thất bại. Ta thầm mong họ đừng nổi nang hơn ta.
Hơn nữa, tinh thần chiếm hữu con chiên cũng được phát hiện trong trường hợp ta vận động để chiếm một đoàn chiên ta tự ý lựa chọn vì những lý do hoàn toàn cá nhân.
Và cả khi sống với đoàn chiên, nếu ta không sống cho họ, nhưng bắt họ sống cho ta, thì cũng là một cách chiếm hữu con chiên.
Tất cả các thứ chiếm hữu vừa kể đều dễ xảy ra trong đời tông đồ. Ðó là những thứ vàng bạc, tiền của, áo giày, gậy bao mà Chúa Giêsu bảo ta phải từ khước.
Chiếm hữu thứ ba ta cần xa tránh là tính ham mê chiếm hữu của cải
Hiện nay chúng ta đã trút bỏ được nhiều vướng mắc về của cải vật chất. Nhưng không phải vì thế mà bảo đảm được rằng ta cũng đã trút bỏ được chính lòng ham mê của cải. Ðôi khi cũng chính vì nghèo mà người ta lại rơi vào cái băn khoăn quá độ tìm kiếm của cải.
Biết đâu đôi khi ta chẳng làm như một số người trong dụ ngôn tiệc cưới, lúc thì vịn lẽ tậu trâu bò, lúc thì vịn lẽ đi xem đất, vv... để từ chối tiếng mời gọi của bổn phận.
Biết đâu nhiều lần ta cũng bị những bận tâm về vật chất kéo ghì lại như một khối hành trang nặng trĩu.
Biết đâu trong thực tế, thay vì tìm kiếm Nước Trời trước rồi mọi sự khác sẽ tới sau, thì ta lại tìm kiếm mọi sự khác trước, còn Nước Trời lại lo sau.
Ngoài ra không thiếu dịp đã làm cho ta dễ biến của chung thành của riêng, xài phí của chung cho lợi ích cá nhân một cách vô trách nhiệm.
Cũng có những lợi lộc ta đã được chỉ vì chức linh mục, và có lẽ ta đã tự giữ lại cho riêng mình, không nghĩ đến nghĩa vụ công bình bác ái ta phải có đối với Giáo phận và đối với các anh em linh mục khác phải vất vả hơn ta nhưng không được may mắn như ta. Cũng là linh mục như nhau, nhiều anh em vì được trao phó những địa điểm khó khăn túng nghèo, nên phải khổ cực thiếu thốn. Còn ta được phục vụ ở những chỗ tốt, không hẳn vì tài đức của ta. Nếu ta không nghĩ đến việc san sẻ bổng lộc cho các anh em ta, thì đó cũng là một thứ chiếm hữu cần đặt thành vấn đề nghiêm chỉnh trước lương tâm.
ù
Trút bỏ đôi giày, trút bỏ chiếc áo là việc quan sát được. Nhưng trút bỏ ba thứ chiếm hữu kể trên là việc không quan sát được. Vì không quan sát được, nhiều khi ta bị cám dỗ không vội trút bỏ hay không cần trút bỏ.
Nhưng nếu ta biết hôm nay là ngày sau cùng đời ta, chắc ta sẽ không ngần ngại trút bỏ dứt khoát tất cả. Vì “được cả vũ trụ mà mất linh hồn mình, thì có ích lợi gì!” (Lc 9,25). Trái lại, “Hạnh phúc cho những tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Sự ta muốn làm trong giờ chết, thì hãy làm ngay bây giờ, để lúc nào ta cũng sẵn sàng ra đi. Bởi vì ta không biết được ngày nào giờ nào Chúa sẽ đến gọi ta (x. Mt 25,13).
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, 1999