Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Ngày 30/4/1975. Nhà Nguyện ÐCV Thánh Tôma

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


  THAO THỨC - Tập 6 - 2005-
 HIẾN THÂN TRỌN VẸN (Thao Thức 6) -2005-
  -2006-
 

Nhớ về Ngày nhận nhiệm vụ mới

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày lễ lớn đối với lịch sử dân tộc. Riêng đối với tôi, ngày đó ghi lại một kỷ niệm nhỏ, nhưng rất sâu đậm. Cho tới hôm nay, và mãi mãi, kỷ niệm ấy vẫn là một luồng gió thiêng thổi vào tu đức, mục vụ và truyền giáo đời tôi.

Xin được phép chia sẻ.

Kỷ niệm nhỏ nói đây là lễ tôi thụ phong Giám mục.

Tôi được Toà Thánh chỉ định làm Giám mục phó giáo phận Long Xuyên. Tin đó tới Toà Giám mục Long Xuyên ngày 17/4/1975. Tình hình lúc đó rất sôi động. Nên Ðức Cha Micae, Giám Mục giáo phận, định tổ chức lễ thụ phong sớm, tức 01/5/1975.

Sáng 30/4/1975, chiến tranh chính thức chấm dứt. Nhưng tình hình ở đây vẫn rối reng. Chẳng còn ai nghĩ tới lễ này. Ngài quyết định cử hành lễ thụ phong càng sớm càng tốt. Nên ngay sau trưa 30/4/1975 lễ thụ phong được cử hành.

 1/ Nhận ra hình thức quy tụ nhỏ, đơn sơ, tập trung vào nội tâm

Thánh lễ được cử hành tại nhà nguyện chủng viện thánh Tôma. Nhà nguyện vốn đã nhỏ, nhưng số người dự lễ càng nhỏ hơn. Chỉ chừng vài chục người. Rất âm thầm. Ðơn sơ tối đa. Nhưng sốt sắng vô chừng.

Hình ảnh quy tụ này trở thành mô hình quy tụ cho đời mục vụ và truyền giáo của tôi. Quy tụ nhỏ, đơn sơ, nhẹ nhàng, thân mật, tập trung vào nội tâm. Chúng tôi gặp gỡ Chúa với hết tâm hồn.

Những quy tụ nhỏ như thế sau này thường rất linh động. Quy tụ bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, dưới bất cứ hình thức nào. Di động, linh động và sống động. Giống thời Giáo Hội sơ khai, đầy ơn Chúa Thánh Thần.

Quy tụ của thánh lễ ngày 30/4/1975 vẫn mãi là một lời nhắn nhủ tốt cho tôi. Nhờ đó, tôi nghĩ rằng: Ðạo từ nay phải nhẹ nhàng hơn, đi vào nội tâm nhiều hơn.

 2/ Nhận ra trách nhiệm đi làm nhân chứng

Những ngày trước lễ, 30/4, trong lễ và sau lễ, tôi chẳng bao giờ nghĩ: Mình thụ phong Giám mục là lên chức, nhưng đúng thực chỉ là nhận một trách nhiệm mới rất nặng. Trách nhiệm đi làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu trong chế độ mới. Xem ra cái gì cũng mới. Ðiều tôi cho là Tin Mừng và muốn làm chứng, thì thời điểm mới không cho đó là Tin Mừng.

Tuy nhiên, khi Chúa sai tôi đi làm chứng cho Chúa Tình Yêu, thì Chúa cũng âm thầm cùng đi với tôi. Trong thánh lễ thụ phong, tôi xác tín điều đó. Những tháng ngày sau 30/4/1975, cho tới hôm nay, xác tín ấy càng thêm vững mạnh.

Làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu là một nhu cầu, một trách nhiệm giữa xã hội Việt Nam mới. Tôi tin nhiều người cũng đã được Chúa sai đi như tôi. Mỗi người mỗi cách. Dù trong hoàn cảnh nào, Tin Mừng vẫn đang âm thầm đi vào lòng người. Bởi vì Chúa đồng hành với các nhân chứng của Người. Hơn nữa, chính nhân chứng phải thực sự có Chúa là Tin Mừng trong chính mình.

 3/ Nhận ra việc cầu nguyện bằng đời sống

Trong thánh lễ thụ phong âm thầm, tôi sớm nhận ra rằng: Từ nay, lời tôi nói, việc tôi làm, sẽ ít đi. Nhưng quan trọng nhất sẽ ở chỗ: Sự tôi là. Tôi phải là người có lửa yêu thương. Tôi phải là muối đất. Tôi phải là người có những cái nhìn thương xót. Tôi phải là người có nhạy cảm, biết khám phá ra những giá trị tốt nơi mọi người tôi gặp, dù người đó là ai, công giáo hay không công giáo, hữu thần hay vô thần. Tôi phải là người phản ánh phần nào hạnh phúc đã gặp được Chúa, mà tôi tôn thờ.

Sự tôi là như thế chính là cầu nguyện bằng đời sống. Mà cầu nguyện bằng đời sống thì không nhất thiết phải trong nhà thờ, mà ở bất cứ đâu, ngay trong môi trường nghịch đạo.

 4/ Nhận ra bổn phận phải hiện diện tích cực trong lịch sử của dân tộc

Trong lễ thụ phong, một ý thức rất rõ đã hiện ra trong tôi. Ðó là từ nay, tôi phải hiện diện tích cực trong lịch sử dân tộc. Trong ý thức đó, tôi nghĩ tới 2 điều này cách riêng:

Một là biết trân trọng những lương tâm tốt lành cao thượng đã là nguồn sức sống thiêng liêng, thúc đẩy những dấn thân cao quý, đem lại cho Quê Hương Việt Nam những giá trị cao cả.

Hai là biết sống tám mối phúc, nhất là mối phúc thứ nhất đề cao sự sống khó nghèo. Sự sống khó nghèo nói đây sẽ để ý nhiều hơn đến sự chia sẻ số phận người nghèo, và cùng họ phấn đấu vượt qua từng bước những khổ đau của cuộc sống lo âu mất mát.

Từ hai tư tưởng trên đây, đã phát sinh ra nhiều ý kiến khác dựa theo Phúc Âm. Nhất là ý kiến: Ðừng để mình và hàng giáo sĩ mình trở thành một giai cấp cai trị giữa đám dân nghèo. Những cảnh khổ nghèo của dân về mọi mặt vẫn mãi mãi nung nấu hồn tôi cho tới bây giờ.

Cũng trong thánh lễ này, hoàn cảnh cụ thể cho tôi thấy một điều khác nữa.

 5/ Nhận ra cách làm những việc lành nhỏ, nhưng với tình yêu tối đa

Tình yêu tối đa phải đốt lên niềm hy vọng và ánh lửa Phục sinh.

Việc lành nhỏ phải mặc áo khiêm tốn, tế nhị. Nếu không tỉnh thức, thì nhiều trường hợp, việc tôn giáo lại mang hình thức đề cao môn đệ Chúa một cách rầm rộ, còn Chúa thì bị che đi, mờ nhạt đi, quên hẳn đi.

Mọi hình thức tự phô trương hay thích được tung hô sẽ tự đánh chìm con thuyền truyền giáo ra khơi. Những hình thức đó vốn không hợp ý Chúa. Chúng càng không hợp với thời điểm mới của xã hội Việt Nam, mà tôi đang bước vào.

Tôi nhận ra những điều trên đây khá rõ ràng trong lễ thụ phong. Hôm đó thánh lễ rất khó nghèo, để nội bật lên niềm tin yêu tuyệt đối vào Thiên Chúa mà thôi.

Sau cùng, tôi nhận ra một cách sâu sắc sự thực về tôi.

 6/ Nhận ra mình rất yếu đuối

Tôi rất yếu đuối về mọi mặt. Nên chỉ còn cách là phó thác nơi Chúa, cậy trông Ðức Mẹ, thánh cả Giuse và nhờ cậy mọi người xung quanh.

Sự yếu đuối của tôi chính là một gánh nặng cho tôi. Tôi rất biết sự thực đau đớn đó. Vì thế, tôi hết sức bám chặt vào Chúa, như trẻ thơ tật nguyền, cô đơn, sợ hãi bám vào người mẹ. Tôi xin ơn đổi mới chính mình. Chúa không bỏ tôi. Tôi tạ ơn Người. Tôi yêu mến Người. Tôi bước theo Ðức Kitô, xin Người đổi mới tôi hằng ngày, để tôi trở về với Chúa Cha giàu lòng thương xót. Tôi luôn xin Chúa xoá tội cho tôi. Tôi luôn mong chờ sự tha thứ của mọi người sẽ dành cho tôi. Vì tôi rất yếu đuối, tội lỗi.

ù

Những nhận ra trên đây càng ngày càng trở nên xác tín nhờ những kinh nghiệm của từng ngày.

Nay, hoàn cảnh đã đổi thay, nhiều lễ tôn giáo đã rất tưng bừng, long trọng, màu mè, thoải mái cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó nhiều hướng suy nghĩ mới đã phát sinh rộng rãi trong tu đức, mục vụ và truyền giáo. Cầu xin cho những chuyển biến đó được hợp ý Chúa.

Thú thực là tôi chưa quen với những hướng mới ấy.

Riêng đối với tôi, những “nhận ra” của tôi ngày thụ phong giám mục, 30/4/1975, vẫn mãi sống động trong tôi.

Sau này, khi thấy Ðức Hồng Y Joseph Ratzinger nhấn mạnh đến sự mình hãy là chút muối bé nhỏ, và hãy có khả năng yêu thương thực nhiều, tôi càng xác tín những “nhận ra” ngày ấy là ơn Chúa.

Tôi vẫn coi đó là những kỷ niệm của một thời để nhớ và để gẫm suy.

Ðời Giám mục của tôi vẫn mãi là lễ thụ phong thuở ấy kéo dài.

Ngày 01 tháng 4 năm 2005