Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


  THAO THỨC - Tập 2 - 2001-2004
 ÐỜI TÔI LÀ MỘT HÀNH TRÌNH -2003-
 THÁCH ÐỐ MỚI TRÊN ÐƯỜNG TRUYỀN GIÁO -2004-
 

30 Tháng Tư Và Sự Thanh Vắng

Tôi thụ phong Giám mục ngày 30/4/1975. Lễ phong chức trưa đó đã rất đơn sơ. Nhớ lại kỷ niệm lịch sử này, nhiều khi tôi cảm thấy một niềm vui riêng, vì được tham gia phần nào vào sự đơn sơ của việc Chúa Giêsu sai các môn đệ xưa.

Chúa Giêsu đã sai các ngài đi. Không với lễ nghi. Không trước quần chúng. Nơi tuyên bố lời sai đi là một căn nhà nhỏ (Ga 20,19-21). Bầu khí thực thanh vắng.

Riêng tôi, từ giây phút được sai đi với tư cách Giám mục, tôi đã cảm nghiệm trong tôi một sự thanh vắng nhiệm mầu. Hình như thanh vắng là một tiếng gọi lên đường trong hoàn cảnh lúc ấy.

Những bước đi đầu tiên của tôi xem ra tìm về hướng đó. Xin phép tóm lại vắn tắt như sau:

- Khám phá những vùng xa vắng.

- Lắng nghe những ngọn lửa âm thầm.

 1/ Khám phá những vùng xa vắng

Vùng xa vắng nơi đây được hiểu về những vùng sâu vùng xa có đạo, nhưng lâu năm vắng bóng linh mục.

Khi tới được những nơi đó, tôi quên mọi mỏi mệt. Tôi cảm động nhận thấy đạo ở những nơi đó rất yếu về hình thức, nhưng rất mạnh về hồn Phúc Âm.

Những người có đạo ở đây không biết mình thuộc quyền linh mục nào, và ở trong phạm vi giáo xứ nào. Nhưng họ xác tín họ thuộc về Chúa. Trong nhà họ chỉ có tượng ảnh Chúa và Ðức Mẹ, một cuốn Phúc Âm hoặc một sách kinh, và xâu chuỗi.

Sinh hoạt quan trọng nhất của họ là cầu nguyện. Cầu nguyện trong mọi trường hợp. Cầu nguyện với đức tin rất mạnh. Cầu nguyện theo công thức và theo tâm tình của họ. Những lúc lòng họ đầy thất vọng, đầy đau đớn, đầy cô đơn, họ càng cầu nguyện.

Tiếp xúc với họ, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói xưa: “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cầu với Người, dù Người có trì hoãn. Thầy nói cho các con biết: Chúa sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,6-8).

Tôi thấy đức tin của nhiều người ở những vùng xa vắng đó thuộc loại đức tin rất vững mạnh, hiếm có. Làm tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không” (Lc 18,8).

Tôi không dám nghĩ điều Chúa nói đó sẽ xảy ra ở đây. Vì thực sự chính tại những nơi xa vắng này, tôi được thêm đức tin.

Một hôm, tôi đi sâu vào vùng núi rừng. Người dẫn đường dắt tôi trèo qua một khu đổ nát. Tôi ngạc nhiên hết sức, khi khám phá thấy một tượng Ðức Mẹ Maria đứng giữa đống gạch vụn rong rêu. Gần tượng có một bức tường xiêu vẹo, đã vỡ ra từng mảnh. Nhìn kỹ, chúng tôi đọc được trên một mảnh tường bài thơ sau đây:

Mẹ đứng ở đây một góc trời,
Ðôi mắt nhân từ nhìn muôn nơi.
Hai tay ban xuống muôn hồng phúc,
Cho kẻ tin yêu chạy đến Người
”.

Dưới ký tên Bảo Sơn.

Tác giả chắc không là người ở đây. Cũng chỉ dừng lại chỗ này một thoáng qua. Nhưng sự ngậm ngùi của tác giả vẫn như nói giùm với Mẹ thay cho tôi và cho nhiều người giữa núi rừng thanh vắng.

Tượng Ðức Mẹ thực là đẹp. Nhất là đôi mắt Mẹ. Tôi tự hỏi: Ai đặt tượng Mẹ ở đây? Trong cảnh tàn phá do chiến tranh, sao Mẹ vẫn đứng trên đống hoang tàn thanh vắng này?

Tôi nghĩ bất cứ ai, dù công giáo, dù không công giáo, khi nhìn Mẹ, đều tức khắc tin yêu Mẹ. Mẹ chắc chắn ban cho họ muôn hồng phúc.

Thì ra Chúa và Mẹ vẫn đợi chờ ta. Dù cảnh đời là những tan vỡ, và đời sống là những bước đi trong thanh vắng cô đơn.

 2/ Lắng nghe những ngọn lửa âm thầm

Một hôm, tôi đi về vùng quê nghèo. Chiếc xa Ladalat của tôi ì ạch lâu giờ trên đường cái lởm chởm những hố to nhỏ. Ðến một quãng, thấy đường trước mắt là một thách đố lớn, tôi xin tài xế cho xe chạy xuống cánh đồng. Ðất ruộng lúc đó còn khô, nên xe đi có vẻ thoải mái hơn đi trên đường. Lúc lại leo lên đường, để tiếp tục đi, tôi thấy quá mệt, nên dừng lại, ngồi nghỉ ở một gốc cây lớn vệ đường.

Một người đi qua, biết tôi là giám mục, vội về xóm loan tin. Chỉ một lát sau, nhiều người chạy tới thăm. Họ làm nên một đám đông cản đường.

Chúng tôi xuống ruộng, ngồi thoải mái trên đất ải. Qua thăm hỏi, tôi nhận ra phần đông những người tới đây là những người công giáo.

Ðã nhiều năm, vì hoàn cảnh, họ chưa bao giờ gặp được một linh mục nào. Nhưng không vì thế, mà họ thiếu trưởng thành về đạo. Hiểu biết của họ về đạo thì không sâu, không rộng. Nhưng cái tâm của họ thì đẹp như ngọn lửa lung linh. Với cái tâm đó, họ sống những liên đới đẹp với xóm làng, với các người ngoài công giáo. Trò chuyện thân mật với họ, tôi có cảm tưởng họ đang làm thành một bó hoa thơm đẹp. Một thứ hoa mà lại như những ngọn lửa. Họ đi thắp sáng tình thương, sự hoà giải, sự cảm thương, sự chia sẻ, đùm bọc lấy nhau, không phân biệt tôn giáo hay giàu nghèo.

Trong ngạc nhiên cảm động, tôi cảm tưởng nghe lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô về Chúa Thánh Thần: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,8).

Thực vậy, tôi đang nghe tinh thần yêu thương phục vụ của họ, và tôi hiểu tinh thần ấy do Chúa Thánh Thần ban cho họ. Do đó, tôi tin, trước khi tôi tới đây, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và vẫn hoạt động ở đây lâu rồi.

Tôi cũng tin rằng: trong một môi trường xã hội như môi trường của họ, cách sống đạo thích hợp nhất để làm chứng cho Chúa, chính là sống giới răn yêu thương, như Chúa Giêsu đã trối lại: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con. Ở điều này, mà mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 19,24-25).

Giữa một nơi thanh vắng, như cánh đồng mênh mông ấy, tôi vui mừng được Chúa nhắc nhở bài học quan trọng của Phúc Âm. Xưa Chúa giảng Tin Mừng. Nhưng nay những người nhắc lại cho tôi Tin Mừng chính là những người dân quê, đơn sơ, chất phác. Họ đã lâu năm không là đàn chiên của ai, mà là của chính Chúa.

ù

Từ 30 tháng 4 năm 1975 tới nay, tình hình các nơi xa vắng, tôi vừa kể, đã đổi thay rất nhiều.

Nhưng thanh vắng vẫn mãi là nhà của tâm hồn tôi.

Tôi cầu nguyện ở đó. Tôi dâng hiến chính mình ở đó. Tôi vẫn gặp gỡ, yêu thương và phục vụ mọi người tại đó và từ nơi đó.

Thanh vắng cũng là con đường Chúa dẫn tôi đi.

Thanh vắng là bàn thờ di động tôi mang theo mình, suốt cả đời tôi.

Thiết tưởng thanh vắng cũng là thái độ đời sống thiêng liêng, mà hiện nay Chúa muốn đưa chúng ta vào. Mục đích là được lắng nghe thánh ý Chúa về truyền giáo tại Việt Nam, trong hoàn cảnh đất nước của 30/4/2004.

Phải thanh vắng rất sâu trong tinh thần cầu nguyện rất khiêm tốn, chúng ta mới có hy vọng phân định được thực sự những điều gì là đúng ý Chúa, trong một tình hình, mà các giá trị thiêng liêng đạo đức đang bị đe doạ xuống cấp trầm trọng, cả ngoài đời lẫn trong tôn giáo.

Long Xuyên, ngày 19 tháng 4 năm 2004